Từ chính sách “nhu viễn” đến “chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh” - những điểm nhấn
1. Các Nhà nước phong kiến Việt Nam tương đối thống nhất trong chính sách đối với những vùng dân tộc ít người. Chính sách nhu viễn được thực thi từ thời Lý và được các triều đại sau tiếp tục áp dụng dù có một vài biến đổi. Điều đó thể hiện một quan điểm mềm dẻo của chính quyền phong kiến trung ương với miền biên viễn. Nó cũng thể hiện sự đánh giá cao vai trò của các bộ tộc thiểu số trong việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn an ninh quốc gia. Địa bàn cư trú của các dân tộc ít người có vai trò quan trọng như phiên giáp bảo vệ đất nước. Các dân tộc cư trú trên địa bàn quan trọng này, cũng thường xuyên là đối tượng của những hoạt động gây rối phá hoại, ly gián chia rẽ, do thám... trong những âm mưu thôn tính. Giữ yên được miền biên cương, góp phần giữ yên được kinh thành, giữ yên được xã tắc.
Ngoài việc phong quan tước, hậu đãi các tù trưởng địa phương, các vua Lý còn có riêng một “chính sách hôn nhân”: Gả các công chúa cho các vị tù trưởng có thế lực. Sử cũ còn ghi: “ngày mồng 7 tháng 3 năm 1029 (vua) đem công chúa Bình Dương gả cho châu mục châu Lạng là Thân Thiệu Thái”; “tháng 3 năm 1036 (vua) đem công chúa Kim Khánh gả cho châu mục châu Phong là Lê Thuận Công”; “tháng 2 năm 1082 (vua) gả công chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị Long là Hà Di Khánh”(1)... Hôn nhân tạo ra mối dây tình cảm liên hệ giữa vua, hoàng tộc với các tù trưởng. Đây chính là sợi “lạt mềm buộc chặt” các thủ lĩnh địa phương với chính quyền trung ương, qua họ mà nhà Lý nắm được miền biên cương xa xôi. Bên cạnh thành công trong việc xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Tống năm 1077, nhà Lý cũng đã bước đầu thành công trong việc chủ động xây dựng phòng tuyến lòng dân, đoàn kết các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Chính sách nhu viễn từ thời Lý đã tạo những tiền đề tốt để các triều đại sau phát triển những chính sách với các vùng dân tộc ít người.
Nhà Trần vẫn tiếp tục chính sách ưu đãi đối với các tù trưởng dân tộc nhưng còn cử những quan lại, quý tộc có tài cầm quân, có tài làm kinh tế, am hiểu địa hình cũng như phong tục địa phương ra trấn giữ những vùng biên ải hiểm yếu. Trần Thủ Độ thường đi phủ dụ dân chúng châu Ái (Thanh Hóa ngày nay); Trần Khánh Dư trấn giữ cửa biển Vân Đồn; Trần Quốc Tảng (con trai Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn) giữ vùng Quảng Yên; Trần Nhật Duật hay đi tuần thú vùng Quy Hóa, Đà Giang. Ông nói được tiếng dân tộc, ăn bốc, uống rượu bằng mũi, sống được với người dân tộc nên đã thu phục được nhiều tù trưởng kể cả những người có tâm ý khác về quy thuận triều đình. Sau này, triều đình còn cử Đoàn Nhữ Hài tới châu Hoan (Nghệ An ngày nay); Trương Hán Siêu tới châu Hóa (Quảng Bình ngày nay)... Trong ba lần kháng chiến chống Nguyên, nhiều vị tù trưởng đã dẫn các đạo dân binh tham gia đánh giặc cùng quan quân triều đình và đã được ghi công trạng như Hà Bổng; Hà Chương; Hà Đặc; Nguyễn Lộc...
Nhà Lê và sau đó là nhà Nguyễn cũng áp dụng những chính sách mềm dẻo với các vùng dân tộc ít người. Chính quyền phong kiến trung ương đã mạnh lên, muốn nắm chắc hơn những địa bàn hiểm yếu với an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền dân tộc, nhưng vẫn không thể bỏ qua những đặc điểm riêng biệt ở các vùng này - trong đó có vai trò không nhỏ của các thủ lĩnh địa phương. Trên những địa bàn này, triều đình cắt cử quan lại và quân đồn trú. Những quan lại được cử đi trấn giữ vùng biên cương đều là những người có tài và trung thành với triều đình. Nhưng triều đình vẫn cho phép các thủ lĩnh địa phương có quyền tự trị trên vùng đất của họ.
Nhà nước phong kiến đã khá coi trọng vai trò của địa bàn miền núi biên giới, hải đảo và cũng đã có những chính sách khôn khéo để thu phục những vùng này nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chống lại những âm mưu xâm lược và xâm lấn. Tuy nhiên, những chính sách mềm dẻo đó trước hết và trên hết nhằm mục đích bảo vệ ngai vàng, bảo vệ hoàng tộc. Những ưu đãi của triều đình với những vùng biên cương mới chỉ dừng ở các thủ lĩnh chứ chưa mang lại sự phát triển đời sống kinh tế hay văn hóa cho số đông đồng bào các dân tộc. Đó hoàn toàn chưa phải là một chính sách xã hội - nói theo ngôn ngữ hiện đại. Đây chính là điều khác biệt về bản chất so với chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng và lãnh đạo thực hiện.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của các dân tộc miền núi trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Người khẳng định truyền thống đoàn kết giữa đồng bào miền núi và đồng bào miền xuôi. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập và chống kẻ thù xâm lược, miền núi là căn cứ địa cách mạng, là phên dậu chống kẻ thù, bảo vệ cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng tới việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết các dân tộc, cùng đồng tâm hiệp lực để đưa kháng chiến tới thắng lợi, kiến quốc tới thành công. Ngày 19-4-1946, trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plây-cu, Người khẳng định: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”; “Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả các dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”(2).
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, miền núi vẫn giữ vị trí quan trọng: Chiếm 2/3 diện tích đất đai; chứa đựng nhiều tiềm năng lớn về nông, lâm nghiệp, về công nghiệp, năng lượng, khoáng sản, về văn hóa, du lịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi việc phát triển kinh tế - xã hội - văn hóa miền núi là bộ phận hợp thành quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Người thường xuyên quan tâm “làm sao cho miền núi và trung du thành một nơi giàu có về nông nghiệp để nâng cao hơn nữa đời sống của nhân dân, để thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà”(3). Đây là công việc to lớn và lâu dài nhưng Người tin vào khả năng vươn lên của đồng bào, tin rằng “cái gì miền xuôi làm được thì miền ngược cũng làm được”.
Ngoài việc chỉ ra những ưu điểm, những thế mạnh tại chỗ của đồng bào miền núi, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh trách nhiệm của đồng bào miền xuôi, của Nhà nước, của Trung ương. Những nhiệm vụ cụ thể mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra về vấn đề này vừa mang tính cấp thiết, vừa là những vấn đề có tính chiến lược lâu dài. Đó là việc phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp, “phải có kế hoạch trồng rừng và tích cực bảo vệ rừng”, phát triển giao thông, xây dựng đời sống văn hóa mới, cải tạo dần những phong tục, tập quán cũ lạc hậu, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, y tế... Đó không phải là việc “làm một ngày, một buổi mà phải làm từng bước, làm bước nào chắc chắn bước ấy”.
Tuy vậy, mỗi dân tộc có phong tục truyền thống riêng, có tâm lý, tính cách riêng, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc cũng không đồng đều nhau. Công cuộc xây dựng miền núi cần có những biện pháp, những bước đi thích hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể của từng dân tộc, trong đó, phải đặc biệt chú ý tới những nét đặc thù của các dân tộc đó. Những kế hoạch đó, cần phải thiết thực. Những chủ trương, chính sách phải xuất phát từ cơ sở tư tưởng tôn trọng quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng và bảo vệ những giá trị văn hóa khác nhau của các dân tộc, bảo vệ sự toàn vẹn của khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng đại đoàn kết các dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thấm nhuần và trở thành đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng và Bác Hồ đã lãnh đạo xây dựng thành công khối đoàn kết các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Cùng với việc giành được độc lập dân tộc, mỗi dân tộc cũng được giải phóng, quyền bình đẳng giữa các dân tộc được khẳng định, đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế... của các dân tộc thiểu số được nâng cao từng bước, an ninh chính trị và toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm vững chắc mặc dù kẻ thù quyết liệt chống phá bằng nhiều thủ đoạn. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận của cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua.
3. Một phần không nhỏ trong số những cuộc xung đột đã và đang diễn ra trên thế giới hiện nay là những cuộc xung đột nội bộ diễn ra giữa các dân tộc. Tại những quốc gia đa dân tộc và các khu vực đã và đang xảy ra xung đột đó, những vấn đề quan hệ giữa các dân tộc không được giải quyết một cách thỏa đáng là nguyên nhân làm bùng nổ xung đột giữa các dân tộc. Hậu quả là đất nước bị chia cắt, các dân tộc đều chịu thiệt hại về nhiều mặt, thậm chí liên quan đến cả sự sinh tồn. Trong cục diện thế giới những năm đầu thế kỷ XXI đã diễn ra những biến động lớn và sâu sắc và sẽ còn tiếp tục diễn biến phức tạp, vấn đề dân tộc thiểu số đang nổi lên như một trong những vấn đề nóng bỏng. Đây là mối quan tâm lớn của thời đại, là vấn đề toàn cầu mà nhiều quốc gia cũng như toàn thể loài người đang phải nỗ lực tìm cách giải quyết.
Ở Việt Nam, miền núi và các dân tộc thiểu số là thành tố quan trọng trong chiến lược phát triển và bảo vệ đất nước. Tình hình mới đang đòi hỏi chúng ta cần giải quyết nhiều yêu cầu nhiệm vụ mới trên nhiều lĩnh vực: xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, xóa đói giảm nghèo... tại những vùng dân tộc thiểu số; thực hiện bình đẳng dân tộc, chống lại những âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc để gây rối loạn, thực hiện âm mưu ly khai và lật đổ./.
--------------------
1. Ngô Sỹ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, H, 1998, t. 1, 253; 258; 281
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t. 4, tr. 249
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 14, tr. 293-294
Từ chính sách “nhu viễn” đến “chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh” - những điểm nhấn  (16/10/2013)
Thông cáo phiên họp thứ 22 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII  (16/10/2013)
Sư đoàn 1, Bộ Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam đón nhận Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân  (16/10/2013)
Thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư Việt Nam - Trung Quốc  (16/10/2013)
Trái đất nóng lên, 150.000 người Việt nguy cơ thiệt mạng  (16/10/2013)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm