Làm gì để hạn chế tác động tiêu cực của việc điều chỉnh tỷ giá đối với nền kinh tế Việt Nam?
TCCSĐT - Ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa ra thông báo điều chỉnh tỷ giá tăng 9,3% và quyết định thu hẹp biên độ giao dịch từ +/-3% xuống còn +/-1% vào ngày 11-2-2011, các nhà nghiên cứu kinh tế trong và ngoài nước cho rằng: việc duy trì quá lâu tỷ giá giữa VND và USD trên thị trường tiền tệ thế giới khiến cho VND trở nên bị định giá cao, làm cho hàng hóa Việt Nam trở nên đắt đỏ trên thị trường thế giới và nhập siêu tăng vọt, cung cầu ngoại tệ mất cân đối, dự trữ ngoại tệ quốc gia giảm sút.
Vì vậy, việc điều chỉnh tỷ giá theo hướng trên là quyết định đúng đắn, phù hợp với bối cảnh thị trường, tránh được tác động tâm lý. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tỷ giá lần này của Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ tác động cả hai chiều, tích cực và tiêu cực đối với nền kinh tế.
Mặt tích cực là chủ đạo
Điều chỉnh tỷ giá trong điều kiện hiện nay nhằm xóa bỏ sự cách biệt lớn giữa tỷ giá chính thức Ngân hàng Nhà nước quyết định và giá trên thị trường tự do, tạo điều kiện cho các ngân hàng thu hút thêm nguồn ngoại tệ nhàn rỗi đang nằm trong dân cư cũng như nguồn kiều hối sẽ ở lại ngân hàng, thay vì phải cạnh tranh trước áp lực tỷ giá chợ đen cao hơn. Trước mắt, các doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn ngoại tệ chưa bán cho ngân hàng, nhưng sau khi thị trường ổn định các doanh nghiệp sẽ bán. Nếu cứ để cho sự chênh lệch lớn giữa VND so với USD như lâu nay thì không những tạo tâm lý găm giữ ngoại tệ trong dân, tạo cán cân cung - cầu ảo, gây bất ổn thị trường mà còn khiến dòng ngoại tệ không chảy vào ngân hàng. Để mua được ngoại tệ, các ngân hàng buộc phải "lách luật" bằng cơ chế hai tỷ giá, niêm yết một đằng, mua bán một nẻo. Thực trạng này gây nhiều khó khăn cho hoạt động của cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp, đồng thời khiến thị trường ngoại hối trở nên thiếu minh bạch, không ổn định.
Các nhà sản xuất nước ngoài, các công ty dệt may ở Mỹ, châu Âu, các nền kinh tế xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan… sẽ khó khăn khi cạnh tranh với hàng hóa của Việt Nam, vì khi nhà xuất khẩu chuyển đổi từ USD sang VND họ có lợi. Giá cả hàng hóa của doanh nghiệp nước ngoài tính theo VND tại Việt Nam sẽ đắt hơn, và doanh thu của họ tại thị trường Việt Nam bằng VND sẽ nhỏ hơn khi được chuyển đổi sang USD. Người tiêu dùng Việt Nam sẽ mua hàng nhập khẩu với mức giá đắt hơn.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nước thay vì lâu nay nhập nguyên vật liệu nước ngoài thì nay quay lại tiêu thụ nhiên liệu trong nước. Vì doanh nghiệp họ trả bằng VND rẻ hơn trả bằng USD, do đó phải tìm cách giảm chi phí sản xuất như dùng vật tư hàng nội thay thế vật tư nhập ngoại. Người tiêu dùng phải trả giá hàng nhập cao hơn do đó phải giảm chi tiêu cho hàng nhập, mua hàng làm ở trong nước. Điều này sẽ giúp cho Việt Nam hạn chế rất lớn được tình trạng nhập siêu như những năm qua. Trong bối cảnh Việt Nam nhập khẩu lớn từ Trung Quốc, nhập siêu chiếm gần như hoàn toàn, hàng hóa của nước láng giềng nhập khẩu vào sẽ có giá đắt đỏ, người tiêu dùng sẽ ưu tiên cho sản phẩm trong nước, sẽ làm lợi cho các nhà sản xuất Việt Nam với nền kinh tế hướng nội.
Điều chỉnh tỷ giá theo hướng trên còn giúp cho Việt Nam có thêm một lượng dự trữ ngoại tệ đang giảm ở mức thấp, có thể làm mất khả năng nhập khẩu và trả nợ, gây đình đốn sản xuất. Vì chính sách tỷ giá là công cụ điều hành của Chính phủ để điều chỉnh nền kinh tế, nhưng mặt khác tỷ giá cũng là hệ quả của nhiều yếu tố cân đối của nền kinh tế. Trong đó quan trọng nhất là cân đối ngoại tệ của quốc gia và cán cân thanh toán. Đồng thời, tạo điều kiện để Ngân hàng điều hành tỷ giá chủ động, phù hợp với tình hình cung cầu ngoại tệ, bảo đảm tăng tính thanh khoản của thị trường, góp phần kiềm chế nhập siêu đang ở mức cao và hỗ trợ cho việc thực thi chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt hơn.
Lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được củng cố, lượng vốn chảy vào Việt Nam sẽ gia tăng, góp phần cải thiện cung ngoại tệ. Các dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp bằng USD đang chờ giải ngân vào Việt Nam được kích hoạt. Rủi ro tỷ giá được loại bỏ, Việt Nam sẽ có cơ hội đón nhận những luồng vốn đầu tư giống như các thị trường mới nổi khác trong khu vực như Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a. Tăng mạnh tỷ giá là động thái kiên quyết nhằm khôi phục lòng tin, phá vỡ tâm lý VND tiếp tục bị phá giá cũng như sự nhất quán trong chính sách điều hành là liệu pháp mạnh, có tính đột phá cao, nhằm cải thiện tình trạng đô-la hóa hiện nay. Nếu không xóa bỏ được kỳ vọng đồng tiền tiếp tục mất giá, kiều hối sẽ chỉ ở dạng ngoại tệ tiền gửi, không được đưa vào lưu thông, dẫn đến sai số lớn trong khoản mục cán cân thanh toán tổng thể của quốc gia.
Những tiêu cực phái sinh
Bên cạnh yếu tố tích cực mang tính chủ đạo như trên thì yếu tố phái sinh tiêu cực cũng xuất hiện:
Lạm phát có nguy cơ tăng cao, lãi xuất khó giảm. Lạm phát trong ngắn hạn có nguy cơ tăng, nếu không được điều chỉnh nhằm giữ cho giá không tăng thêm bằng các chính sách tín dụng, tiền tệ và tài chính công phù hợp sẽ biến nó thành lạm phát dài hạn và đòi hỏi tiếp tục phá giá đồng tiền, tạo thành vòng xoáy lạm phát. Khi tỷ giá tăng thì giá cả đương nhiên cũng tăng theo và sẽ dẫn đến lạm phát cao đối với một nền kinh tế đang có lạm phát như hiện nay. Lạm phát sẽ dẫn tới áp lực lên tiền tệ lớn hơn. Nếu lạm phát tăng thì lãi suất sẽ tăng theo, vì lãi suất hiện nay ở Việt Nam đang ở mức cao, nâng tỷ giá sẽ khiến cho việc giảm lãi suất trong ngắn hạn ít có cơ hội xảy ra do sức ép từ lạm phát, thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách áp dụng chính sách lãi suất cao sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến nền kinh tế. Ngoài ra, khi tỷ giá được điều chỉnh với mức chênh lệch lớn thì nợ nước ngoài của Việt Nam phải trả sẽ nhiều hơn.
Doanh nghiệp và người tiêu dùng bị ảnh hưởng lớn khi tỷ giá tăng làm cho giá các mặt hàng nhập khẩu theo đó cũng tăng giá. Sau khi tỷ giá tăng, VND sẽ mất giá. Giá cả các mặt hàng từ nhập khẩu đến hàng tiêu dùng sản xuất trong nước cũng sẽ tăng theo, do giá nguyên liệu đầu vào tăng, ảnh hưởng đến khả năng tài chính chi trả của doanh nghiệp và người dân, hậu quả là lạm phát tăng cao. Đối với doanh nghiệp khi điều chỉnh tỷ giá thì nợ ngoại tệ khi tính ra VND bị tăng lên, các doanh nghiệp vay ngoại tệ phải chịu rủi ro hối đoái vì Việt Nam chưa áp dụng các công cụ phân tán rủi ro. Ở Việt Nam công cụ chống rủi ro hối đoái trên thị trường hối đoái chưa phát triển nên cũng có hạn chế phần nào với các doanh nghiệp.
Đối với thị trường chứng khoán cũng sẽ bị tác động và ảnh hưởng lớn, nhất là đối với các nhà đầu tư không chuyên thì việc thay đổi tỷ giá sẽ ít nhiều gây lo ngại cho họ, có thể gây ra một số xáo động trên thị trường chứng khoán. Vì tâm lý đầu tư của các nhà đầu cơ chứng khoán Việt Nam đa số còn chịu tác động của tâm lý đám đông, nếu có một sự kích thích ở một bộ phận nhỏ thì rất có thể kéo theo cả một bộ phận lớn hơn làm theo, gây nên sự xáo trộn trên thị trường. Đối với quỹ đầu tư nước ngoài sẽ bị tác động lên hoạt động giá trị tài sản ròng của họ, vì tài sản ròng của các nhà đầu tư nước ngoài được tính bằng USD, nên khi tỷ giá điều chỉnh giảm thì giá trị tài sản ròng của nhà đầu tư sẽ bị giảm. Điều này đương nhiên là ảnh hưởng xấu đến các nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, cần thiết phải có những giải pháp để hạn chế những tiêu cực phái sinh từ từ việc điều chỉnh tỷ giá giữa VND và USD.
Giải pháp hạn chế mặt tiêu cực được đưa ra là:
- Xây dựng và thực hiện các giải pháp về điều hành vĩ mô bao gồm: lãi suất, cung ứng tiền cũng như giải tỏa những ách tắc trên thị trường tiền tệ.
- Ngân hàng Nhà nước cần tạo sự thông thoáng trên thị trường ngoại tệ, hướng tới sự ổn định ở mức hợp lý, bằng cách bán USD cho các đơn vị thực sự có nhu cầu; tạo niềm tin của doanh nghiệp vào cơ quan quản lý nhà nước; cần linh hoạt trong vận hành để đạt được mục tiêu hiệu quả, có thể tác động đến mức lạm phát cũng như tạo ra mặt bằng giá mới.
- Cơ quan quản lý cần rà soát lại các quy định trong thông tư 13 và 19 để loại bỏ những quy định bất hợp lý; tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, đưa nguồn tiền về Ngân hàng Nhà nước để điều tiết khi cần thiết. Bảo đảm cho ngân hàng vừa có lãi suất, vừa tăng nguồn thu cho ngân sách.
- Tăng cường quản lý đầu tư công; thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu; sử dụng tiết kiệm nặng lượng, thực hiện lộ trình điều hành giá bán xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường; tăng cường bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội… hạn chế sự tác động dây chuyền.
- Bảo đảm cân bằng cán cân thanh toán tổng thể; giảm mặt bằng lãi suất một cách phù hợp; xóa bỏ đầu cơ và buôn lậu vàng; nâng cao hiệu quả phân cấp đầu tư; kiểm soát chặt chẽ thị trường bất động sản và danh mục đầu tư của các tập đoàn… Chính phủ cần thể hiện quyết tâm chống đầu cơ ngoại hối, vàng cũng như điều hành giá xăng, dầu, điện... theo cơ chế thị trường; hạn chế tăng trưởng tín dụng dưới 20%.
- Thực hiện thắt chặt chính sách tài khóa, giảm 10% chi tiêu công, giảm bội chi dưới 5% như yêu cầu của Chính phủ; tiếp tục thúc đẩy sản xuất kinh doanh, trước hết là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và kiểm soát chặt chẽ nhập siêu...
- Tập trung cao cho việc thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội, nhất là các chính sách cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền tạo sự đồng thuận xã hội; các bộ, ngành và các địa phương thường xuyên nắm chắc tình hình, đề xuất bổ sung giải pháp và điều chính chính sách kịp thời.
Như vậy, sự điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong tình hình hiện nay được các chuyên gia kinh tế cho là phù hợp, tránh được những nhược điểm trong việc điều hành tỷ giá trong thời gian qua. Tuy nhiên, tác động tiêu cực của việc điều chỉnh tỷ giá cũng không phải nhỏ. Do đó, ngoài việc ban hành chính sách tỷ giá mới thì Chính phủ nên áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp để phục hồi sự ổn định kinh tế vĩ mô, có những biện pháp kinh tế để hạn chế tối thiểu những tiêu cực từ chính sách này như lợi dụng việc tăng tỷ giá để nâng giá, gây bất lợi cho nền kinh tế./.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh  (25/02/2011)
Hội thảo quốc tế về năng lượng sinh học và quản lý chất thải vùng Đồng bằng sông Cửu Long  (25/02/2011)
Thanh niên là nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc  (25/02/2011)
Giải ngân vốn FDI tăng 4,5% so với cùng kỳ 2010  (25/02/2011)
Bổ nhiệm Hội đồng thành viên của 3 Tập đoàn  (25/02/2011)
Bổ nhiệm lại 3 Thứ trưởng  (25/02/2011)
- Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm