Đánh thức vàng bằng gì?
21:21, ngày 02-11-2012
TCCSĐT - Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình, khi trình bày trước Quốc hội trong phiên thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội của nền kinh tế, đã ước định hiện tại có khoảng 300 đến 400 tấn vàng đang ở trong dân. Có nghĩa là một số tiền tương đương từ 15 tỷ USD đến 20 tỷ USD, hay 400 nghìn tỷ đồng đang nằm yên trong tủ và trong két của người dân. Trong khi ấy hàng vạn doanh nghiệp trong cả nước lại đang “ngắc ngoải” do không vay được vốn hoặc phải vay với lãi suất quá cao.
Cũng không có gì lạ. Từ xa xưa, người Việt ta vốn gian nan dựng nước và giữ nước, rồi quanh năm ngày tháng đầu tắt mặt tối lo sao cho đủ ăn, đủ mặc, lại trải qua những thiên tai địch họa triền miên, nên bản tính “tích cốc phòng cơ” dường như đã trở thành cố hữu. Qua được những đận ấy thì lại phấn đấu sao cho có “bát ăn, bát để”. Bản chất ấy truyền từ đời xưa cho đến đời nay. Chính vì thế mà kiếm được đồng nào là bà con ta lại “lận ngay vào lưng quần”, và mang dành dụm cất kỹ. Chả vậy mà có câu chuyện vui, có đôi vợ chồng nọ mỗi khi đêm về đều cửa đóng then cài chỉ để hoan hỉ đếm đi đếm lại những nén bạc cả đời dành dụm được, rồi lại mê mẩn gói kỹ, cất sâu.
Quan niệm như thế vốn đã tồn tại và ăn sâu vào tiềm thức nhiều người đến bây giờ. Trong khi đó, xã hội vẫn không ngừng phát triển, đất nước ngày một đi lên, hội nhập sâu rộng hơn với thế giới. Và tiếp tục để nền kinh tế ngày càng phát triển thì phải có tiền đầu tư, có phương thức làm ăn cho những đồng vốn sinh sôi nảy nở, để GDP tăng lên, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, đóng góp vào ngân sách của đất nước và quay vòng trở lại tái đầu tư vào nền kinh tế. Đó là quy luật, cũng là xu hướng phát triển tất yếu của cả thế giới này. Vậy mà có đến cả 400 tấn vàng vẫn nằm yên trong các ngăn tủ hay két sắt lạnh ngắt và tối mò.
Trở lại phần trình bày của Thống đốc Nguyễn Văn Bình tại nghị trường Quốc hội. Ông Bình nhận trách nhiệm về những hạn chế trong quản lý ở lĩnh vực này. Đó là “Ngân hàng Nhà nước đã không làm tốt việc tuyên truyền phổ biến chính sách trong quản lý thị trường vàng”. Nhận trách nhiệm là vậy, song ngoài chuyện tuyên truyền phổ biến chính sách, thì một vấn đề quan trọng không kém mà ông thống đốc chưa nhắc tới ở đây, đó là phải có được chính sách tốt thì mới có thể tuyên truyền và tuyên truyền tốt. Tức là cần phải có chính sách làm động lực căn bản rồi mới có thể tuyên truyền phổ biến cho người dân biết rõ, từ đó mới khiến họ mở két, bỏ vàng ra và đưa nó vào mạch máu chung của nền kinh tế, giúp hệ thống tài chính của Nhà nước lưu thông và tiếp tục quay vòng, tuần hoàn trong khắp hệ thống.
Thế nhưng thực tế vừa qua cho đến cả hiện nay cho thấy, vàng, tiền và các phương tiện thanh toán khác vẫn còn đầy trong dân. Cho đến khi giá vàng tăng, tăng dần, tăng nhanh và rất nhanh, thậm chí tăng đột biến thì vàng trong dân cũng ùn ùn ra khỏi hầm ngủ đông với tốc độ tương ứng với tốc độ tăng giá đang ngày một leo thang. Chỉ trong khoảng 6 tháng, từ tháng 5-2012 đến nay đã có khoảng 60 tấn vàng trỗi dậy như thế. Rõ ràng do giá vàng tăng đã làm nên hiện tượng này chứ không phải là hiệu quả tuyên truyền. Chỉ tiếc là số vàng này chuyển về các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu cân đối trạng thái vàng của các ngân hàng đang lo đến thời điểm giới hạn của Ngân hàng nhà nước chứ không phải là cung ứng vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Theo ước tính, để đáp ứng nhu cầu vàng kịp thời hạn theo quy định của Ngân hàng nhà nước, (dù đã được lùi sang đến tháng 6-2013 thay vì tháng 11-2012) thì các ngân hàng còn phải mua vào khoảng 20 tấn vàng nữa - tương đương 25 nghìn tỷ đồng tính theo giá vàng hiện tại). Và nếu thuận mua, vừa bán, thậm chí là các ngân hàng sẽ phải “cố mà thuận” để mua cho được, thì số vàng này trong các gia đình cũng sẽ thức dậy mà đi ra thôi. Chính sự “phải cố mà thuận mua” đối với 60 tấn vàng trong dân vừa qua là nguyên nhân chính khiến giá vàng tăng một cách đột biến, gây bất ổn thị trường vàng trong nước. Nhân chuyện vàng, cũng cần nói thêm tình trạng lưu giữ ngoại tệ trong dân (mà chủ yếu là đồng đô-la Mỹ) cũng đang tồn tại ở trạng thái tương tự như vàng, khiến có thời điểm nền kinh tế bị gọi là đô-la hóa.
Thực tế, giá trị vàng và đô-la trong dân nếu đem gửi ngân hàng hưởng lãi (với lãi suất đối với tiền Đồng, có thời điểm và trong cả một thời gian dài là rất cao, lên đến 18 -20%/năm) cũng sẽ mang lại khoản lợi nhuận đáng kể cho người gửi. Nhưng thực tế là một lượng vàng và ngoại tệ rất lớn kia vẫn chỉ nằm yên trong dân mà thôi. Sự thiếu ổn định của tiền Đồng đã khiến chủ sở hữu khối lượng vàng và ngoại tệ kia không mấy tin tưởng. Họ thà ôm giữ tài sản này trong nhà chứ không gửi vào ngân hàng (kể cả tài sản bằng tiền Đồng, vàng hay ngoại tệ).
Với một nền kinh tế đang phát triển, đang trong hội nhập quốc tế thì đồng vốn tồn đọng trong kho như thế là không thể chấp nhận. Bởi khi xã hội phát triển mà ta đứng yên thì có nghĩa là ta đã bị lùi. Trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng, chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát tăng (cho dù tăng ở mức được kiểm soát) thì đồng vốn đứng yên là đồng vốn đã tự làm mình giảm giá. Giảm ở đây không đơn thuần là thiệt hại đối với cá nhân sở hữu vốn mà còn là thiệt hại đối với tổng thể nền kinh tế. Nếu đồng vốn được huy động, được hòa vào huyết mạch của nền kinh tế, được trao đổi, quay vòng và được tăng giá trị thì mới là đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Ngay cả trong truyền thuyết và tâm linh của người Việt, kho vàng của Bà Chúa Kho cũng đã được huy động vào đầu năm để đưa vào sản xuất kinh doanh, để rồi đến cuối năm người vay lại mang về trả vốn và nộp lãi.
Nhà nước ta dự tính sẽ đánh thuế vào vàng - (cụ thể là đánh thuế vào vàng của người mua) và giải pháp này đang được các nhà quản lý cũng như các nhà kinh doanh quan tâm. Nếu phải đóng thuế khi mua vàng thì người dân muốn mua vàng tích trữ như từng làm trước đây nay chắc chắn sẽ phải cân nhắc. Ai cũng thấy đây là một giải pháp hứa hẹn mang lại hiệu quả cao trong việc quản lý vàng. Với giải pháp này, vàng sẽ dần được dịch chuyển từ trong dân vào sự quản lý của nhà nước và sẽ được đưa vào hoạt động của nền kinh tế.
Nhà nước ta cũng đã quy định trên lãnh thổ Việt Nam, chỉ sử dụng tiền Đồng, trừ các trường hợp được phép hoạt động trong lĩnh vực này. Trong khi đó, kiều hối chuyển về trong nước mỗi năm một tăng và còn nhiều nguồn ngoại tệ hợp pháp khác, thậm chí có một số nguồn núp bóng hợp pháp, mà lãi suất ngoại tệ gửi tại các ngân hàng ở trong nước lại không hề hấp dẫn. Nếu không có chính sách hợp lý sẽ chẳng có ai gửi. Nếu lợi nhuận thấp mà lại mang tính rủi ro thì nhiều người dân sẽ thà giữ chặt hầu bao trong tay chứ không giao của cải của mình cho người khác quản lý.
Chúng ta cũng nói đến thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế. Đã một thời đồng tiền trong dân ồ ạt đổ vào chứng khoán và thậm chí mang nhiều rủi ro nhưng dường như không gì ngăn cản nổi bởi lợi nhuận trước mắt quá lớn. Nhưng thị trường chứng khoán chỉ đúng là kênh huy động vốn thật sự khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu hút được vốn đang găm giữ trong dân, chứ không phải là mua đi, bán lại cổ phiếu trên thị trường theo kiểu lướt sóng thu lời bằng chênh lệch giá như cách thường diễn ra lâu nay. Thế nhưng để hút vốn đầu tư vào cổ phiếu mới, để phát triển doanh nghiệp thì yêu cầu hàng đầu là cổ tức mang lại cho người đầu tư phải hợp lý. Mà muốn vậy doanh nghiệp phải hoạt động hiệu quả. Trong điều kiện kinh tế toàn cầu khó khăn suốt thời gian vừa qua và kéo dài cho đến hiện nay thì đây là một mục tiêu khó nói chung và đối với doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Có nghĩa là, trong mọi trường hợp, phải bằng các quy định chặt chẽ của pháp luật, phải có chính sách phù hợp (và trong những trường hợp cần thiết phải có tác dụng khuyến khích) có thể mang lại lợi ích thật sự cho người có vốn, cùng với việc tuyên truyền phổ biến rõ ràng các chính sách ấy thì việc quản lý và huy động vốn mới mang lại hiệu quả như mong muốn. Việc các ngân hàng mua 60 tấn vàng của người dân như vừa rồi (ở đây không nói đến sự thua thiệt của ngân hàng khi phải mua lại vàng với giá cao để bù vào lượng vàng đã lỡ bán ra trước đây với giá thấp) đã diễn ra rất dễ dàng, mà nguyên nhân quan trọng nhất chỉ là do giá vàng tăng cao./.
Quan niệm như thế vốn đã tồn tại và ăn sâu vào tiềm thức nhiều người đến bây giờ. Trong khi đó, xã hội vẫn không ngừng phát triển, đất nước ngày một đi lên, hội nhập sâu rộng hơn với thế giới. Và tiếp tục để nền kinh tế ngày càng phát triển thì phải có tiền đầu tư, có phương thức làm ăn cho những đồng vốn sinh sôi nảy nở, để GDP tăng lên, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, đóng góp vào ngân sách của đất nước và quay vòng trở lại tái đầu tư vào nền kinh tế. Đó là quy luật, cũng là xu hướng phát triển tất yếu của cả thế giới này. Vậy mà có đến cả 400 tấn vàng vẫn nằm yên trong các ngăn tủ hay két sắt lạnh ngắt và tối mò.
Trở lại phần trình bày của Thống đốc Nguyễn Văn Bình tại nghị trường Quốc hội. Ông Bình nhận trách nhiệm về những hạn chế trong quản lý ở lĩnh vực này. Đó là “Ngân hàng Nhà nước đã không làm tốt việc tuyên truyền phổ biến chính sách trong quản lý thị trường vàng”. Nhận trách nhiệm là vậy, song ngoài chuyện tuyên truyền phổ biến chính sách, thì một vấn đề quan trọng không kém mà ông thống đốc chưa nhắc tới ở đây, đó là phải có được chính sách tốt thì mới có thể tuyên truyền và tuyên truyền tốt. Tức là cần phải có chính sách làm động lực căn bản rồi mới có thể tuyên truyền phổ biến cho người dân biết rõ, từ đó mới khiến họ mở két, bỏ vàng ra và đưa nó vào mạch máu chung của nền kinh tế, giúp hệ thống tài chính của Nhà nước lưu thông và tiếp tục quay vòng, tuần hoàn trong khắp hệ thống.
Thế nhưng thực tế vừa qua cho đến cả hiện nay cho thấy, vàng, tiền và các phương tiện thanh toán khác vẫn còn đầy trong dân. Cho đến khi giá vàng tăng, tăng dần, tăng nhanh và rất nhanh, thậm chí tăng đột biến thì vàng trong dân cũng ùn ùn ra khỏi hầm ngủ đông với tốc độ tương ứng với tốc độ tăng giá đang ngày một leo thang. Chỉ trong khoảng 6 tháng, từ tháng 5-2012 đến nay đã có khoảng 60 tấn vàng trỗi dậy như thế. Rõ ràng do giá vàng tăng đã làm nên hiện tượng này chứ không phải là hiệu quả tuyên truyền. Chỉ tiếc là số vàng này chuyển về các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu cân đối trạng thái vàng của các ngân hàng đang lo đến thời điểm giới hạn của Ngân hàng nhà nước chứ không phải là cung ứng vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Theo ước tính, để đáp ứng nhu cầu vàng kịp thời hạn theo quy định của Ngân hàng nhà nước, (dù đã được lùi sang đến tháng 6-2013 thay vì tháng 11-2012) thì các ngân hàng còn phải mua vào khoảng 20 tấn vàng nữa - tương đương 25 nghìn tỷ đồng tính theo giá vàng hiện tại). Và nếu thuận mua, vừa bán, thậm chí là các ngân hàng sẽ phải “cố mà thuận” để mua cho được, thì số vàng này trong các gia đình cũng sẽ thức dậy mà đi ra thôi. Chính sự “phải cố mà thuận mua” đối với 60 tấn vàng trong dân vừa qua là nguyên nhân chính khiến giá vàng tăng một cách đột biến, gây bất ổn thị trường vàng trong nước. Nhân chuyện vàng, cũng cần nói thêm tình trạng lưu giữ ngoại tệ trong dân (mà chủ yếu là đồng đô-la Mỹ) cũng đang tồn tại ở trạng thái tương tự như vàng, khiến có thời điểm nền kinh tế bị gọi là đô-la hóa.
Thực tế, giá trị vàng và đô-la trong dân nếu đem gửi ngân hàng hưởng lãi (với lãi suất đối với tiền Đồng, có thời điểm và trong cả một thời gian dài là rất cao, lên đến 18 -20%/năm) cũng sẽ mang lại khoản lợi nhuận đáng kể cho người gửi. Nhưng thực tế là một lượng vàng và ngoại tệ rất lớn kia vẫn chỉ nằm yên trong dân mà thôi. Sự thiếu ổn định của tiền Đồng đã khiến chủ sở hữu khối lượng vàng và ngoại tệ kia không mấy tin tưởng. Họ thà ôm giữ tài sản này trong nhà chứ không gửi vào ngân hàng (kể cả tài sản bằng tiền Đồng, vàng hay ngoại tệ).
Với một nền kinh tế đang phát triển, đang trong hội nhập quốc tế thì đồng vốn tồn đọng trong kho như thế là không thể chấp nhận. Bởi khi xã hội phát triển mà ta đứng yên thì có nghĩa là ta đã bị lùi. Trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng, chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát tăng (cho dù tăng ở mức được kiểm soát) thì đồng vốn đứng yên là đồng vốn đã tự làm mình giảm giá. Giảm ở đây không đơn thuần là thiệt hại đối với cá nhân sở hữu vốn mà còn là thiệt hại đối với tổng thể nền kinh tế. Nếu đồng vốn được huy động, được hòa vào huyết mạch của nền kinh tế, được trao đổi, quay vòng và được tăng giá trị thì mới là đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Ngay cả trong truyền thuyết và tâm linh của người Việt, kho vàng của Bà Chúa Kho cũng đã được huy động vào đầu năm để đưa vào sản xuất kinh doanh, để rồi đến cuối năm người vay lại mang về trả vốn và nộp lãi.
Nhà nước ta dự tính sẽ đánh thuế vào vàng - (cụ thể là đánh thuế vào vàng của người mua) và giải pháp này đang được các nhà quản lý cũng như các nhà kinh doanh quan tâm. Nếu phải đóng thuế khi mua vàng thì người dân muốn mua vàng tích trữ như từng làm trước đây nay chắc chắn sẽ phải cân nhắc. Ai cũng thấy đây là một giải pháp hứa hẹn mang lại hiệu quả cao trong việc quản lý vàng. Với giải pháp này, vàng sẽ dần được dịch chuyển từ trong dân vào sự quản lý của nhà nước và sẽ được đưa vào hoạt động của nền kinh tế.
Nhà nước ta cũng đã quy định trên lãnh thổ Việt Nam, chỉ sử dụng tiền Đồng, trừ các trường hợp được phép hoạt động trong lĩnh vực này. Trong khi đó, kiều hối chuyển về trong nước mỗi năm một tăng và còn nhiều nguồn ngoại tệ hợp pháp khác, thậm chí có một số nguồn núp bóng hợp pháp, mà lãi suất ngoại tệ gửi tại các ngân hàng ở trong nước lại không hề hấp dẫn. Nếu không có chính sách hợp lý sẽ chẳng có ai gửi. Nếu lợi nhuận thấp mà lại mang tính rủi ro thì nhiều người dân sẽ thà giữ chặt hầu bao trong tay chứ không giao của cải của mình cho người khác quản lý.
Chúng ta cũng nói đến thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế. Đã một thời đồng tiền trong dân ồ ạt đổ vào chứng khoán và thậm chí mang nhiều rủi ro nhưng dường như không gì ngăn cản nổi bởi lợi nhuận trước mắt quá lớn. Nhưng thị trường chứng khoán chỉ đúng là kênh huy động vốn thật sự khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu hút được vốn đang găm giữ trong dân, chứ không phải là mua đi, bán lại cổ phiếu trên thị trường theo kiểu lướt sóng thu lời bằng chênh lệch giá như cách thường diễn ra lâu nay. Thế nhưng để hút vốn đầu tư vào cổ phiếu mới, để phát triển doanh nghiệp thì yêu cầu hàng đầu là cổ tức mang lại cho người đầu tư phải hợp lý. Mà muốn vậy doanh nghiệp phải hoạt động hiệu quả. Trong điều kiện kinh tế toàn cầu khó khăn suốt thời gian vừa qua và kéo dài cho đến hiện nay thì đây là một mục tiêu khó nói chung và đối với doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Có nghĩa là, trong mọi trường hợp, phải bằng các quy định chặt chẽ của pháp luật, phải có chính sách phù hợp (và trong những trường hợp cần thiết phải có tác dụng khuyến khích) có thể mang lại lợi ích thật sự cho người có vốn, cùng với việc tuyên truyền phổ biến rõ ràng các chính sách ấy thì việc quản lý và huy động vốn mới mang lại hiệu quả như mong muốn. Việc các ngân hàng mua 60 tấn vàng của người dân như vừa rồi (ở đây không nói đến sự thua thiệt của ngân hàng khi phải mua lại vàng với giá cao để bù vào lượng vàng đã lỡ bán ra trước đây với giá thấp) đã diễn ra rất dễ dàng, mà nguyên nhân quan trọng nhất chỉ là do giá vàng tăng cao./.
Cải tổ nội các ở Ấn Độ  (02/11/2012)
Nâng cao hiểu biết pháp luật cho người lao động  (02/11/2012)
“Hội chứng” chỉ đạo và tiếp thu chỉ đạo  (02/11/2012)
Hà Nội thúc đẩy việc xây hai tuyến đường sắt đô thị  (01/11/2012)
Việt Nam - Indonesia chia sẻ về truyền thông Khoa học và Công nghệ  (01/11/2012)
Diễn đàn doanh nghiệp Á - Âu thúc đẩy đầu tư ở Lào  (01/11/2012)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm