Tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát tối cao là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Quốc hội trong tình hình mới
Là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội có vị trí, nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng, thể hiện ở 3 chức năng: lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Nhìn lại chặng đường 65 năm qua, với 12 khóa Quốc hội, nhất là trong những năm đổi mới, Quốc hội đã làm tốt nhiệm vụ và phát huy được quyền lực của mình, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và nhân dân; ngày càng được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Tuy nhiên, trước yêu cầu, đòi hỏi to lớn của sự nghiệp cách mạng trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng, trước diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới, trong khu vực và của đất nước, Quốc hội cần tiếp tục tổng kết, đúc rút kinh nghiệm hoạt động từ các khóa trước; nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của mình, có như vậy mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
Báo cáo tổng kết hoạt động Quốc hội khóa XII nhiệm kỳ 2007 - 2011 đã đánh giá: hoạt động của Quốc hội ngày càng dân chủ, thực chất và hiệu quả hơn, có nhiều đổi mới cả trong tư duy và thực tiễn hoạt động, thể hiện rất rõ trên tất cả các lĩnh vực hoạt động lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; nhưng cũng còn những tồn tại, hạn chế về hiệu quả, chất lượng hoạt động, về tổ chức, phương thức và lề lối làm việc của Quốc hội. Trong những tồn tại, hạn chế đó, nổi lên nhất vẫn là hoạt động giám sát của Quốc hội, chẳng hạn như: chưa xem xét một cách toàn diện, sâu sắc đối với một số báo cáo công tác của các cơ quan nhà nước; nhiều kiến nghị giám sát chưa cụ thể; chưa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể (tổ chức, cá nhân) liên quan qua hoạt động giám sát; chưa thường xuyên quan tâm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị sau giám sát nên hiệu lực và hiệu quả giám sát của các cơ quan Quốc hội chưa được như mong muốn; chưa tiến hành thường xuyên việc giám sát ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh... Có thể chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến công tác giám sát tối cao của Quốc hội chưa tốt, như: một số quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội còn thiếu cụ thể hoặc chưa phù hợp, nhất là cơ chế buộc các tổ chức, cá nhân trong tổ chức bộ máy nhà nước phải tiếp thu, tuân thủ một cách nghiêm túc và đúng luật đối với các kết luận, kiến nghị sau hoạt động giám sát; hoặc như cơ chế chất vấn, trả lời chất vấn và thực hiện các lời hứa với cử tri; cơ chế tổ chức các phiên điều trần tại Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội; cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm với các chức danh được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn... Bên cạnh nguyên nhân do cơ chế cũng cần phải nói đến nguyên nhân thuộc về bản lĩnh, trình độ, năng lực của các đại biểu Quốc hội, các đoàn giám sát và các cơ quan của Quốc hội có kiên quyết đấu tranh, giải quyết triệt để các vấn đề nóng bỏng, nhạy cảm, phức tạp trong các nội dung cần giám sát hay không, và cũng cần phải kể đến vai trò, trách nhiệm, ý thức tuân thủ của các cá nhân, tổ chức chịu sự giám sát trong bộ máy công quyền...
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhìn rộng ra quốc hội các nước trên thế giới và trong khu vực, kể cả những nước có chế độ nghị trường lâu đời, có thể thấy, vấn đề giám sát luôn được chú trọng và cũng là lĩnh vực nóng bỏng, gay cấn nhất trong hoạt động quốc hội của các nước. Đó cũng là điều dễ hiểu, vì quốc hội có xây dựng hệ thống pháp luật tốt đến bao nhiêu, có ra các nghị quyết, các quyết định đúng đắn đến mấy, nhưng không được tuân thủ một cách nghiêm túc thì hiệu quả, hiệu lực thực thi pháp luật không cao, các nghị quyết của quốc hội sẽ không đi vào cuộc sống và ở một mức độ nào đó, trở nên vô nghĩa. Vì vậy, quốc hội phải sử dụng các công cụ của mình được pháp luật cho phép để giám sát, kiểm tra, buộc các tổ chức, cá nhân phải tuân thủ nghiêm túc và xử lý nghiêm về trách nhiệm đối với các vi phạm. Có như thế, quốc hội mới thực hiện đầy đủ quyền lực của mình mà pháp luật đã quy định, bảo đảm quyền lực tối cao của quốc hội, mà xét cho cùng, đó là quyền lực, là ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Mặt khác, trong yêu cầu đặt ra, muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, pháp luật phải được coi là tối thượng, bắt buộc và bảo đảm mọi công dân, tổ chức đều phải sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Hiện nay, với thực trạng vi phạm các quy định của pháp luật diễn ra khá phổ biến, dưới các hình thức, mức độ khác nhau ở nhiều cấp, ngành, thì công tác kiểm tra, giám sát càng đòi hỏi phải được tăng cường hơn bao giờ hết. Có thể nói, trên mọi phương diện, cả góc độ lý luận và thực tiễn, trước yêu cầu pháp lý, Quốc hội phải tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của mình và coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Quốc hội trong tình hình mới.
Hoạt động giám sát của Quốc hội có điểm giống nhưng về cơ bản là khác với hoạt động giám sát, kiểm tra của Đảng, thanh tra, kiểm tra của Chính phủ. Theo giải thích tại Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, “giám sát là việc Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”, và cũng coi “chất vấn là một hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao”; do vậy, phạm vi, đối tượng, hình thức giám sát của Quốc hội có nhiều điểm khác với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Về phạm vi, mọi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước liên quan đến việc thực thi Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan này đều nằm trong phạm vi giám sát của Quốc hội. Đối tượng giám sát là các tổ chức, cá nhân trong bộ máy công quyền được cơ quan dân cử bầu hoặc phê chuẩn, chủ yếu là ở cấp Trung ương và cấp tỉnh, như ở cấp Trung ương là Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; ở cấp tỉnh là hội đồng nhân dân tỉnh, ủy ban nhân dân tỉnh, và chỉ khi xét thấy cần thiết thì mới tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Hình thức giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Quốc hội là xem xét báo cáo công tác của các cơ quan chịu sự giám sát, xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong hoạt động giám sát, một hình thức thường được sử dụng và được dư luận cử tri quan tâm là chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong trường hợp xét thấy cần thiết, Quốc hội có thể thành lập ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định. Quốc hội có thể bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tự mình hoặc có ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội hoặc khi có đề nghị của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Vấn đề đặt ra là, Quốc hội phải làm gì, có những đổi mới thế nào để khắc phục những hạn chế và nâng cao hiệu quả trong hoạt động giám sát của mình. Nhưng cũng cần làm rõ thước đo nào đánh giá hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội được coi là có hiệu quả. Hiện còn có ý kiến khác nhau về tính hiệu quả này, song tựu trung, mục tiêu, yêu cầu của hoạt động giám sát có đạt được hay không; có đạt được yêu cầu đặt ra là bảo vệ được Hiến pháp và pháp luật hay không; có bảo đảm sự tuân thủ pháp luật nghiêm ngặt của các đối tượng chịu sự giám sát, làm rõ trách nhiệm của các đối tượng chịu sự giám sát hay không, điều quan trọng nhất là hiệu quả đem lại về mặt kinh tế, chính trị và xã hội, những tác động đối với xã hội và tâm tư, nguyện vọng của cử tri. Trong thực tế, không phải hoạt động giám sát nào của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đều đạt được hiệu quả như mong muốn. Chưa có nhiều cuộc giám sát đạt được kết quả toàn diện và có không ít cuộc giám sát chưa đi đến cùng mục tiêu giám sát, nhất là khi xác định trách nhiệm của các đối tượng chịu sự giám sát. Mặt khác, cũng phải thấy rằng, hoạt động giám sát có đạt được hiệu quả, mức độ cao hay không, không chỉ phụ thuộc vào sự nỗ lực của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, mà còn phụ thuộc vào kết quả hậu giám sát, đó là sự tiếp thu các kết luận, kiến nghị sau giám sát của các tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
Trước tình hình mới và cũng nhằm khắc phục những tồn tại trong hoạt động giám sát, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội nên có một số giải pháp đổi mới như sau:
Một là, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII phải lựa chọn được những đại biểu ưu tú nhất, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trí tuệ và bản lĩnh để tham gia Quốc hội, làm tròn chức năng, nhiệm vụ người đại biểu nhân dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Mặt khác, cần tiếp tục đổi mới, củng cố về mặt tổ chức của Quốc hội; có thể thành lập thêm một số ủy ban trên cơ sở tách một số ủy ban của Quốc hội để bảo đảm tính chuyên môn sâu hơn, như: Ủy ban Tài chính - Ngân sách, Ủy ban Các vấn đề xã hội, Ủy ban Văn hóa, giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng...; đồng thời, cần tăng hơn nữa tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách ở Trung ương và địa phương để giúp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội có điều kiện nâng cao chất lượng các hoạt động giám sát của Quốc hội.
Hai là, sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát, trong đó cần sửa một số điều liên quan đến cơ chế tiếp thu kết luận, kiến nghị của hoạt động giám sát; cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Quy định cho phép tổ chức các phiên điều trần và mở rộng hoạt động chất vấn tại Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội; tiếp tục đổi mới và tăng tính pháp lý cho hoạt động giám sát của các đoàn đại biểu Quốc hội ở các địa phương...
Ba là, kết hợp tốt các hoạt động giám sát mang tính chất thường xuyên với các hoạt động giám sát theo chuyên đề; giữa hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban, đoàn đại biểu Quốc hội ở cả Trung ương và địa phương để đạt được các yêu cầu vừa theo chiều rộng, vừa bảo đảm chiều sâu, tránh trùng lắp và gây sự phiền hà cho các đối tượng chịu sự giám sát. Hoạt động giám sát cần bám sát, bảo đảm yêu cầu, mục tiêu đề ra, lựa chọn các lĩnh vực giám sát, nhất là giám sát chuyên đề có trọng điểm, trọng tâm, chẳng hạn như các lĩnh vực đang được dư luận và cử tri quan tâm; khi tiến hành giám sát, cần chú ý đến sự tác động và tính hiệu quả về kinh tế, xã hội, chính trị và pháp lý.
Bốn là, các cuộc giám sát cần đi đến cùng của vấn đề, kết hợp tốt các hình thức giám sát, nâng cao chất lượng các phiên chất vấn, nhất là chất vấn theo chuyên đề, nhóm vấn đề, chú trọng tranh luận những vấn đề có ý kiến khác nhau; khi cần thiết có thể thành lập ủy ban lâm thời để điều tra những vấn đề nóng bỏng, phức tạp và có thể bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Các hoạt động giám sát phải góp phần nâng cao trách nhiệm và tính tự chịu trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát.
Năm là, tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt cơ chế công khai, minh bạch, dân chủ, coi đó là “thanh bảo kiếm” của Quốc hội, đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao ý thức trách nhiệm của đại biểu Quốc hội để không bị các thế lực thù địch lợi dụng, thông qua các hoạt động của Quốc hội, nhất là hoạt động giám sát, nhằm bôi nhọ, kích động và gây mất đoàn kết nội bộ.
Nhiệm vụ của Quốc hội trong giai đoạn mới là hết sức nặng nề. Song, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự ủng hộ của cử tri và nhân dân cả nước, Quốc hội khóa XIII sẽ phát huy được thành tựu 65 năm qua, ngày càng đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn cách mạng mới./.
Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ  (03/08/2011)
Phát biểu nhậm chức của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng  (03/08/2011)
Việt Nam dự “Hội nghị Đa dạng Văn hóa ASEAN” tại Thái Lan  (03/08/2011)
Thông cáo số 9, Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII  (03/08/2011)
Những sự kiện quốc tế đáng chú ý trong tuần (từ ngày 25-7-2011 đến ngày 31-7-2011)  (02/08/2011)
Trình Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm 4 phó thủ tướng  (02/08/2011)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm