Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống: Giá trị nền tảng và yêu cầu đổi mới trong kỷ nguyên hiện đại
TCCS – Văn hóa chính trị là một bộ phận hữu cơ của văn hóa dân tộc, thể hiện trình độ phát triển của đời sống chính trị, phẩm chất của chủ thể chính trị và phương thức tổ chức, vận hành quyền lực trong xã hội. Trong lịch sử Việt Nam, văn hóa chính trị truyền thống được hình thành, bồi đắp và phát triển qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, thấm sâu vào tư duy, lối sống, đạo lý và thiết chế quyền lực của người Việt. Những giá trị như yêu nước, nhân nghĩa, trọng dân, đoàn kết, đức trị và linh hoạt đã trở thành nền tảng tinh thần quan trọng, góp phần tạo nên bản sắc riêng biệt và sức sống bền bỉ của nền chính trị Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, những giá trị văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống không chỉ tiếp tục phát huy vai trò tích cực mà còn đặt ra nhiều yêu cầu phải kế thừa, phát triển và đổi mới phù hợp với bối cảnh mới.
1. Văn hóa chính trị là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực chính trị, thể hiện ở nhận thức, thái độ, hành vi, phong cách ứng xử với quyền lực, nhà nước và xã hội. Nó bao gồm cả hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức chính trị, truyền thống yêu nước, tinh thần cộng đồng, ý thức pháp luật và các hình thức tổ chức, vận hành quyền lực. Văn hóa chính trị không đơn thuần là suy nghĩ hay cảm xúc về chính trị mà còn chi phối cách người ta hành động trong lĩnh vực này, từ đó ảnh hưởng đến việc xây dựng và vận hành các cơ chế quyền lực trong xã hội. Theo góc nhìn chủ nghĩa Mác - Lê-nin, văn hóa chính trị hình thành qua quá trình lịch sử và xã hội, phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, bản sắc dân tộc và mức độ phát triển sản xuất. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, văn hóa chính trị thường có định hướng rõ ràng, đi liền với việc thúc đẩy dân chủ, xây dựng nhà nước thuộc về dân, do dân quyết định và phục vụ lợi ích của nhân dân. Lý luận văn hóa chính trị cho thấy giá trị xưa cũ góp phần tạo nên bản sắc riêng và sức mạnh từ bên trong cho hệ thống cầm quyền. Một thể chế muốn đứng vững không chỉ cần luật lệ chặt chẽ mà phải có nền tảng văn hóa chính trị.
Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống bắt nguồn từ hoàn cảnh lịch sử riêng, chịu tác động bởi địa thế, chính trị và tư tưởng Á Đông, cùng kinh nghiệm cai trị từ xưa tới nay. Trải qua hàng nghìn năm chống giặc ngoại xâm và thiên tai, tinh thần yêu nước dần được vun đắp, cùng với khát vọng độc lập, tự chủ và quan điểm “dân là gốc”. Những yếu tố này luôn hiện diện trong cách tổ chức quyền lực, từ thời phong kiến đến giai đoạn cách mạng và đổi mới hiện đại. Sự hòa quyện giữa Nho giáo, Phật giáo với Đạo giáo đã góp phần hình thành tư duy chính trị mang tính riêng biệt - đề cao đạo đức, coi trọng nhân tình, sự cân bằng và tinh thần tập thể. Tư tưởng “tam giáo đồng nguồn” không chỉ định hình cách sống của con người mà còn ảnh hưởng đến bộ máy nhà nước và cách quản lý xã hội. Cùng với đó, trải qua bao đời, cách điều hành đất nước cũng có những nét riêng biệt. Mặc dù triều đình nắm quyền cao nhưng làng xã vẫn tự lo việc mình. Trung ương đưa luật lệ thì địa phương vẫn có tục lệ riêng, tạo nên sự dung hòa giữa nguyên tắc cứng và cách làm mềm dẻo, gần gũi với con người. Nhờ vậy mà hình thành nền tảng chính trị mang màu sắc Việt - nổi bật ở lòng yêu nước, sống có nghĩa tình, coi trọng dân, đề cao đạo đức, trọng dụng người tài, lại biết linh hoạt khi giải quyết chuyện đời chuyện xã hội. Chính nền tảng văn hóa chính trị truyền thống này đã hun đúc nên bản sắc tư tưởng và phương thức điều hành đặc thù của chế độ cầm quyền Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử.
Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống, với hệ giá trị mang tính lịch sử và nhân văn sâu sắc, không chỉ là di sản văn hóa mà còn là nguồn lực tinh thần quý báu, tiếp tục phát huy vai trò tích cực trong việc định hình, củng cố và phát triển đời sống chính trị - xã hội nước ta trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Những ảnh hưởng tích cực của văn hóa chính trị truyền thống thể hiện trên nhiều phương diện như:
Có lòng tự hào và vững vàng trong chính trị. Tình yêu nước, tinh thần tự quyết, tự làm chủ và cả khối đoàn kết dân tộc - đó là những điều thiết yếu trong văn hóa chính trị xưa nay, từng ngày nuôi dưỡng nền tảng tinh thần cho hệ thống cầm quyền ở Việt Nam. Những điều này giúp ta đứng thẳng trên mặt trận ý thức hệ, định rõ hướng đi và giữ vững lập trường trong cả chính sách bên trong lẫn quan hệ với nước ngoài. Việc nhất quyết đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự tự chủ, độc lập nhưng vẫn mở cửa kết nối toàn cầu - tất cả đều thể hiện rõ nét bản sắc chính trị được vun đắp từ quá khứ.
Cách lãnh đạo gắn với dân, lo cho dân, kính trọng người dân ngày càng được chú trọng. Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, “thương dân như con”, “quan phải làm đầy tớ chứ không hách dịch” từ xưa được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, chuyển thành nền tảng đạo đức cách mạng. Những chuẩn mực đó nay trở thành định hướng khi chọn người đứng đầu, quản lý ở các cấp. Lãnh đạo phải biết gần gũi, chịu nghe ý kiến, trao đổi thẳng thắn với dân, chứ không chỉ ra lệnh. Việc này không đơn thuần là nghĩa vụ mà còn thể hiện thái độ sống, cách ứng xử của cán bộ. Nhờ vậy, công việc điều hành đất nước mới hiệu quả hơn. Đồng thời, người dân cũng tin tưởng vào Đảng và chính quyền hơn trước.
Làm nền để mọi người thuận ý và xã hội vững vàng. Tinh thần gắn bó, giúp nhau lúc khó khăn hay đã ăn sâu trong văn hóa chính trị của người xưa, như sợi dây kết nối con người lại với nhau. Khi kinh tế hay xã hội xáo trộn nhiều, các giá trị đó trở nên quan trọng để giữ sự ổn định, cùng nhau đoàn kết dân tộc. Sự đồng lòng trong xã hội, hình thành từ giao thoa giữa phong tục cũ và niềm tin về chính trị, giúp đất nước vượt qua khó khăn lớn. Đại dịch COVID-19 hay khủng hoảng kinh tế thế giới chính là phép thử của giá trị truyền thống này.
Góp phần định hướng đạo đức trong chính trị và nuôi dưỡng cán bộ sống ngay thẳng. Giá trị "trọng đức", "trọng hiền tài" từ nền chính trị xưa giúp tạo ra tiêu chuẩn đạo đức cho đội ngũ cán bộ ngày nay. Văn hóa chính trị cũ nhấn mạnh việc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, đặt phẩm chất đạo đức ngang hàng với năng lực làm việc. Điều này được đưa vào quy trình quản lý cán bộ qua yêu cầu về sự liêm khiết, công bằng, tinh thần trách nhiệm và phục vụ dân chứ không vì lợi riêng. Những yếu tố này làm nền tảng giúp bộ máy nhà nước hoạt động tốt hơn, từng bước giảm quan liêu, tham nhũng và sự xa cách với người dân.
2. Bên cạnh những giá trị tích cực, văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống cũng tồn tại những giới hạn lịch sử, thể hiện qua các biểu hiện tiêu cực trong đời sống chính trị - xã hội hiện đại. Đây là những yếu tố cần được nhận diện đầy đủ và xử lý có hệ thống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nền chính trị hiện đại, minh bạch, hiệu quả và dân chủ.
Thứ nhất, tư duy “trọng tình hơn trọng lý” làm suy yếu tính pháp quyền. Một trong những biểu hiện tiêu cực dễ nhận thấy là lối tư duy trọng tình cảm, cảm tính trong quản lý, điều hành và xử lý công việc hành chính. Truyền thống “lấy tình làm gốc”, “trọng hòa hiếu” trong lịch sử từng có vai trò duy trì ổn định cộng đồng làng xã, nhưng trong điều kiện hiện đại lại dễ dẫn đến tình trạng né tránh va chạm, nể nang, thiếu minh bạch và công bằng. Hệ quả là làm suy giảm hiệu lực của pháp luật, làm mờ ranh giới giữa công và tư, ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của bộ máy nhà nước.
Thứ hai, tâm lý “cục bộ, làng xã” cản trở cải cách thể chế và phát triển toàn diện. Tính tự trị làng xã từng là đặc điểm nổi bật trong cấu trúc chính trị truyền thống, góp phần duy trì sự ổn định ở cấp cơ sở. Tuy nhiên, trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền và hệ thống quản trị thống nhất, tâm lý “địa phương chủ nghĩa”, “lợi ích nhóm” - biến tướng từ tính “làng xã” - trở thành một lực cản đối với cải cách thể chế, phân bổ nguồn lực hiệu quả và đảm bảo công bằng xã hội. Những biểu hiện như chạy theo thành tích cục bộ, cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương hay sự trì trệ trong thực thi chính sách trung ương cho thấy tác động tiêu cực rõ ràng của tâm lý này.
Thứ ba, ảnh hưởng của tư tưởng “trung quân, phụ quyền” làm suy yếu tinh thần dân chủ. Văn hóa chính trị phong kiến với đặc điểm “trung quân tuyệt đối” và thiết chế gia trưởng đã để lại dấu ấn trong tư duy chính trị của một bộ phận cán bộ, công chức. Biểu hiện của tâm lý phục tùng mệnh lệnh một cách máy móc, thụ động, ngại phản biện, sợ trách nhiệm vẫn còn tồn tại trong một số cơ quan công quyền. Tư tưởng “phụ quyền” cũng có nguy cơ làm hạn chế vai trò của phụ nữ trong đời sống chính trị - xã hội nếu không được nhìn nhận và xử lý đúng mức trong quá trình xây dựng xã hội dân chủ, tiến bộ và bình đẳng giới.
Thứ tư, tính linh hoạt chuyển hóa thành tùy tiện, thiếu nguyên tắc. Văn hóa linh hoạt và dung hòa trong xử lý công việc từng giúp người Việt thích ứng với hoàn cảnh lịch sử đa biến. Tuy nhiên, nếu không gắn liền với khuôn khổ pháp lý rõ ràng, sự linh hoạt rất dễ biến thành tùy tiện, dẫn đến những biểu hiện tiêu cực, như: tùy tiện trong ban hành chính sách, thiếu nhất quán trong chỉ đạo điều hành, xử lý vi phạm thiếu minh bạch, thậm chí tạo kẽ hở cho tham nhũng, tiêu cực nảy sinh. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới hiệu quả quản trị quốc gia và lòng tin xã hội.
3. Để nhận diện rõ hơn tác động của văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống đối với đời sống chính trị - xã hội hiện đại, cần đi sâu phân tích một số trường hợp cụ thể trong thực tiễn quản trị quốc gia, qua đó rút ra những bài học về sự kế thừa, phát huy cũng như yêu cầu đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước.
Trong công tác cán bộ, từ đạo lý truyền thống đến chuẩn mực hiện đại. Truyền thống “trọng đức”, “trọng hiền tài”, “kỷ cương phép nước” đã góp phần hình thành một nền tảng đạo đức cho đội ngũ cán bộ. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện đại, chuẩn mực của người cán bộ không chỉ dừng lại ở “đạo đức”, mà còn đòi hỏi “năng lực thực thi”, “tinh thần trách nhiệm” và “khả năng chịu trách nhiệm”. Một bộ phận cán bộ hiện nay vẫn chịu ảnh hưởng của tư duy “tránh va chạm”, “làm cầm chừng”, thiếu quyết đoán - biểu hiện của tâm lý nể nang, trọng tình hơn lý, né tránh trách nhiệm cá nhân. Thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong những năm gần đây cho thấy rõ vai trò của việc nâng cao văn hóa chính trị cán bộ: không chỉ dựa vào công cụ kiểm tra, giám sát, mà còn phải bồi dưỡng nền tảng văn hóa chính trị vững vàng, để cán bộ “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”.
Trong thực hiện dân chủ cơ sở: truyền thống “dân là gốc” và yêu cầu thể chế hóa. Truyền thống coi trọng dân chủ, với nguyên lý “ý dân là ý trời”, đã thể hiện xuyên suốt trong tiến trình lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, để chuyển hóa tinh thần dân chủ truyền thống thành nền dân chủ hiện đại, cần có cơ chế thể chế hóa rõ ràng, minh bạch. Việc triển khai quy chế dân chủ ở cơ sở trong nhiều năm qua đã tạo điều kiện cho người dân tham gia bàn bạc, giám sát các vấn đề liên quan đến cộng đồng. Tuy nhiên, vẫn còn những biểu hiện hình thức, nặng về báo cáo hành chính, thiếu thực chất. Một số nơi còn duy trì tâm lý “dân không biết thì dân không bàn”, trái ngược với yêu cầu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Vì vậy, cần tiếp tục thể chế hóa cơ chế dân chủ cơ sở bằng các quy định pháp luật rõ ràng, đồng thời nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho người dân, nhằm chuyển họ từ vị trí thụ hưởng sang vai trò chủ thể tích cực tham gia xây dựng và hoàn thiện chính sách.
Trong quá trình chuyển đổi số và xây dựng chính phủ điện tử. Văn hóa linh hoạt, thích ứng là một lợi thế truyền thống của người Việt Nam. Tuy nhiên, khi bước vào quá trình chuyển đổi số - vốn yêu cầu tính hệ thống, chuẩn hóa và minh bạch thì lối làm việc tùy nghi, cảm tính, không nhất quán lại trở thành rào cản lớn. Quá trình số hóa thủ tục hành chính, xây dựng chính phủ số hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải thay đổi phương thức làm việc theo hướng quy trình hóa, minh bạch hóa, loại bỏ các yếu tố chủ quan, tùy tiện. Việc này không thể thành công nếu không đi kèm với thay đổi trong tư duy văn hóa chính trị, từ “hành chính hóa quyền lực” sang “phục vụ hóa quyền lực”, từ “quản trị theo kinh nghiệm” sang “quản trị theo dữ liệu và chuẩn mực”.
Trong cải cách thể chế và quản trị quốc gia. Cải cách thể chế không chỉ là thay đổi luật lệ, bộ máy, mà còn là cải cách tư duy quyền lực và mô thức vận hành quyền lực. Những yếu tố như “văn hóa xin - cho”, “quyền lực mềm không minh định”, hay “thẩm quyền chồng lấn” vẫn là hệ quả của tư duy tổ chức quyền lực truyền thống nơi quyền lực gắn với cá nhân nhiều hơn là hệ thống. Văn hóa chính trị hiện đại đòi hỏi phải xây dựng được thiết chế kiểm soát quyền lực thực chất, minh bạch hóa quá trình ra quyết định và thực thi, đồng thời nâng cao năng lực giám sát của người dân và các tổ chức xã hội. Chỉ khi đó, những giá trị truyền thống như “trọng dân, yêu nước, tôn hiền tài” mới thực sự chuyển hóa thành sức mạnh nội sinh cho thể chế.
4. Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống là kết tinh của lịch sử dựng nước và giữ nước, là sản phẩm của sự giao thoa giữa bản sắc dân tộc với hệ giá trị đạo lý phương Đông. Những giá trị như yêu nước, nhân nghĩa, trọng dân, trọng hiền tài, đoàn kết cộng đồng, linh hoạt và dung hòa đã hình thành nền tảng tinh thần vững chắc cho đời sống chính trị nước ta trong suốt chiều dài lịch sử. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, văn hóa chính trị truyền thống tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong việc củng cố bản lĩnh chính trị dân tộc, hình thành phong cách lãnh đạo gần dân, thúc đẩy đồng thuận xã hội và định hướng đạo đức công vụ. Tuy nhiên, cùng với đó, một số biểu hiện tiêu cực như tư duy cảm tính, tâm lý làng xã, nể nang, thiếu minh bạch và quản trị tùy tiện vốn bắt nguồn từ môi trường văn hóa truyền thống - đang đặt ra nhiều thách thức trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc kế thừa và phát triển văn hóa chính trị truyền thống cần được đặt trong tầm nhìn biện chứng, vừa trân trọng giá trị lịch sử, vừa chủ động đổi mới để đáp ứng yêu cầu phát triển của thời đại. Văn hóa chính trị không thể là “hài cốt văn hóa”, mà phải là một hệ giá trị sống động, định hướng hành vi, truyền cảm hứng, và thúc đẩy hành động chính trị tích cực.
Để phát huy những giá trị tích cực và khắc phục những hạn chế của văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước, cần tập trung vào một số định hướng sau:
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, đạo đức công vụ và tư duy đổi mới. Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Kết hợp giữa tiêu chuẩn truyền thống “vừa hồng, vừa chuyên” với các yêu cầu hiện đại như tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Tăng cường đào tạo văn hóa chính trị cho cán bộ, không chỉ ở cấp cao mà ngay cả ở cơ sở.
Hai là, hoàn thiện thể chế phát huy dân chủ và kiểm soát quyền lực hiệu quả. Cụ thể hóa nguyên tắc “dân là gốc” bằng các thiết chế thực chất: dân tham gia, dân giám sát, dân phản biện. Tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực, phòng ngừa sai phạm ngay từ gốc bằng pháp luật và truyền thống đạo lý.
Ba là, phát triển văn hóa pháp quyền song hành với đạo đức công vụ. Kế thừa truyền thống “đức trị” nhưng phải xây dựng cơ chế “pháp trị” rõ ràng, nghiêm minh. Kết hợp giữa kỷ cương pháp luật và tinh thần nhân văn trong hành vi công vụ.
Bốn là, nâng cao văn hóa chính trị trong nhân dân - nền tảng cho dân chủ thực chất. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chính trị - tư tưởng gắn với thực tiễn và ngôn ngữ dễ tiếp cận. Phát triển năng lực chính trị của công dân: hiểu biết pháp luật, khả năng tham gia phản biện và giám sát xã hội.
Năm là, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về văn hóa chính trị một cách có hệ thống. Đưa văn hóa chính trị trở thành một lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu, liên ngành. Tổng kết bài học từ thực tiễn cải cách hành chính, chuyển đổi số, phòng chống tham nhũng, để làm rõ vai trò của văn hóa chính trị trong quá trình đổi mới thể chế.
Kế thừa, phát huy và đổi mới văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống không chỉ là nhiệm vụ của ngành văn hóa hay lý luận chính trị, mà là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn hệ thống chính trị. Trong kỷ nguyên hội nhập và chuyển đổi mạnh mẽ, việc xây dựng một nền văn hóa chính trị dân chủ, pháp quyền, nhân văn - trên nền tảng các giá trị truyền thống tốt đẹp - chính là con đường để tăng cường niềm tin xã hội, nâng cao hiệu lực quản trị quốc gia và bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước./.
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và xây dựng con người Quảng Ninh trong kỷ nguyên mới
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và xây dựng con người Quảng Ninh trong kỷ nguyên mới
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm