TCCSĐT - Một trong những nội dung được giới nghiên cứu ở Nga đặc biệt quan tâm trong khi hoạch định và thực hiện chiến lược hiện đại hoá nước Nga là xác định đúng vai trò, vị trí của nền kinh tế Nga trên thị trường sản phẩm công nghệ cao của thế giới, bởi trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, công nghệ cao đã trở thành yếu tố quyết định vị thế quốc gia và sức mạnh quốc phòng của một nước.

Cơ cấu và triển vọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của Nga

Theo kết quả khảo sát của giới nghiên cứu kinh tế ở Nga, khối lượng sản phẩm và công nghệ cao của Nga xuất khẩu ra thị trường thế giới chiếm tỷ lệ không nhiều và được sản xuất chủ yếu tại các công ty và các hãng thuộc tổ hợp công nghiệp quốc phòng vốn là thế mạnh được kế thừa từ thời Liên Xô trước đây.

Hiện nay, trên thị trường trong nước, phần lớn nhu cầu về sản phẩm công nghệ cao đều được đáp ứng thông qua con đường nhập khẩu từ nước ngoài. Thí dụ, trong tổng khối lượng các hệ thống truyền thông công nghệ cao được sử dụng ở Nga, khối lượng sản phẩm sản xuất trong nước so với khối lượng sản phẩm nhập khẩu chỉ chiếm 2%. Tình hình có khá hơn chút ít trong lĩnh vực các phương tiện vận tải chiến lược quan trọng như máy bay vận tài và tàu vận tải biển, trong đó sản phẩm sản xuất trong nước vẫn còn chiếm tới 50% trên thị trường nội địa. Trong chuyển thăm Mỹ cuối tháng 6-2010 của Tổng thống Nga Đmi-tơ-ri Mét-vê-đép, Nga đã ký hợp đồng mua 50 chiếc máy bay vận tải hành khách Boeing trị giá 4 tỉ USD. Trong xu thế chung sản phẩm công nghệ cao có nhu cầu rất lớn trên thị trường thế giới, nước Nga đang từng bước đẩy mạnh sản xuất loại sản phẩm này.

Nguyên nhân của tình tình hình này là do sau khi Liên Xô sụp đổ, nền công nghiệp của Nga gần như bị suy sụp, ngân sách đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển bị cắt giảm đáng kể, số lượng các nhà khoa học ngày một ít hơn, hiện tượng “chảy máu chất xám” diễn ra khá nghiêm trọng. Do đó, tỷ phần xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao của Nga giảm xuống chỉ còn 8%, tương đương với vị thế của một nước đang phát triển. Ngoài ra, lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao trong điều kiện của một nền kinh tế - xã hội thời kỳ quá độ ở Nga không đáp ứng được thị trường do tiềm lực khoa học và sản xuất của Nga được định hướng chủ yếu là phục vụ quốc phòng đã trở nên quá dư thừa (bởi thế, ngân sách quốc phòng bị cắt giảm đáng kể, và quân số ở lĩnh vực này từ gần 3 triệu người giảm xuống chỉ còn hơn 1 triệu người). Ngoài ra, do hoạt động của những ngành này bị tác động tiêu cực của sự mất cân đối trong cơ cấu sản phẩm, công suất sản xuất của các xí nghiệp của không có khả năng thích nghi với điều kiện thị trường mới, trong khi đó họ buộc phải duy trì cơ sở nghiên cứu khoa học và thực nghiệm có giá trị lớn từ các nguồn lực hạn hẹp. Sự thay đổi đáng kể điều kiện kinh tế, cuộc khủng hoảng tài chính và lạm phát đã làm rối loạn hoạt động quản lý và làm giảm đáng kể các công trình nghiên cứu khoa học và thử nghiệm phục vụ sản xuất.

Trong một thời gian dài, Nga đã không chú ý đến việc khai thác và sử dụng hợp lý tiềm năng khoa học - kỹ thuật và công nghệ sẵn có vô cùng to lớn được kế thừa từ thời Liên Xô, mà nguyên nhân chủ yếu là do quá trình tư nhân hóa ồ ạt đầu những năm 1990. Nga đã đánh mất tiềm năng quý hiếm đó, trong khi chính các lĩnh vực công nghệ cao lại có khả năng đổi mới nhạy bén và đóng vai trò chiến lược trong việc bảo đảm chất lượng mới và nhịp độ phát triển kinh tế của đất nước, củng cố tiềm lực kinh tế, duy trì sự ổn định xã hội và khả năng quốc phòng, đóng vai trò quyết định trong việc bảo đảm vị thế dẫn đầu và ưu thế trong cuộc cạnh tranh với các nước khác trong lĩnh vực công nghệ cao.

Bởi thế, Nga đang xây dựng chiến lược phát triển mang tính đột phá dựa trên cơ sở huy động ở mức độ cao tiềm lực trí tuệ, phát triển và kích thích hoạt động sáng tạo có hiệu quả trong khuôn khổ các chương trình quốc gia, trong đó xác định rõ ưu tiên đầu tư ngân sách vốn đang rất hạn chế để vươn tới trình độ khoa học và kỹ thuật tiên tiến nhất của thế giới. Đồng thời, Nga phải phát triển nền kinh tế theo hướng đáp ứng nhu cầu trong nước, như Nhật Bản đã từng làm sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, kích thích quá trình nội địa hóa sâu sắc toàn bộ chính sách xuất, nhập khẩu, trước hết giành ưu tiên chiến lược vào thị trường các nước trong Cộng đồng các quốc gia độc lập và các nước trên lục địa Á - Âu.

Nga vừa phải phát triển theo hướng đột phá vào thị trường công nghệ cao của thế giới, đồng thời bảo vệ thị trường trong nước, chống lại sự xâm nhập của các hãng phương Tây, ngăn chặn quá trình xuống cấp của tiềm lực khoa học và tiềm lực sản xuất. Điều này chỉ có thể làm được với sự giúp đỡ của Nhà nước, bởi không một hãng hoặc công ty tư nhân lớn đến mấy nào có thể độc lập vươn ra thị trường công nghệ cao bên ngoài và củng cố vị thế ở đó, do luôn phải đổi mới sản phẩm và chịu rủi ro cao.

Theo thống kê của giới nghiên cứu ở Nga, tỷ phần của 7 nước công nghiệp phát triển (Nhóm G-7) chiếm 80-90% toàn bộ sản phẩm công nghệ cao của thế giới, trong đó trước hết là những “công nghệ lớn” (macrotechnology), là công nghệ bao quát toàn bộ các quy trình như nghiên cứu thiết kế, chế tạo và thử nghiệm, sản xuất, dịch vụ nhằm tạo ra một loại sản phẩm có các tính chất định trước. Trên thế giới, hiện có 50 công nghệ lớn, trong số đó Mỹ chiếm 22 công nghệ lớn; Đức: 8-10 công nghệ; Nhật Bản: 7 công nghệ; Pháp: 3-5 công nghệ.

Nga là quốc gia có công suất sản xuất rất lớn trong lĩnh vực chế tạo máy và luyện kim, trong đó có nhiều xí nghiệp công nghiệp quốc phòng, có nhiều tài nguyên phong phú, và có đội ngũ cán bộ có tay nghề cao, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học và giáo dục. Do đó, Nga đã xác định nhiều hướng ưu tiên của trong lĩnh vực công nghệ lớn. Trong thời kỳ từ năm 2010 đến năm 2025, Nga ưu tiên phát triển từ 12 đến 16 công nghệ lớn. Trước năm 2010, Nga đã có được 6-7 công nghệ lớn mà trình độ có thể ngang với trình độ thế giới, như công nghệ hàng không, công nghệ vũ trụ, năng lượng điện hạt nhân, đóng tàu, chế luyện các loại hợp kim đặc biệt và chế tạo máy năng lượng. Nếu những ngành công nghệ lớn này có khả năng cạnh tranh trên thị trường công nghệ cao, Nga sẽ nâng tỷ lệ từ 0,3% đến 10% hoặc 12% thị phần công nghệ lớn trong khối lượng hàng xuất khẩu và thu về từ 140 đến 180 tỉ USD giá trị xuất khẩu hằng năm. Các yếu tố then chốt để đạt được kết quả đó sẽ là chất lượng, giá cạnh tranh và dịch vụ sản phẩm. Thực hiện chính sách này sẽ tạo ra nhu cầu xã hội rất cao về khoa học và giáo dục. Tuy nhiên, Nga chưa có chính sách xuất khẩu nhất quán. Hiện nay, Nga cần phải mua gần như mọi thứ từ khoản thu nhập xuất khẩu tài nguyên, kim cương, vàng bạc và đá quý.

Vị trí của Nga trên thị trường sản phẩm công nghệ cao dân dụng

Nhìn chung, vị thế của Nga trong việc xuất khẩu hàng hóa công nghệ cao dân dụng chiếm chưa tới 1% thị trường thế giới. Do đó, hướng chiến lược để Nga thoát khỏi tình trạng đó và cũng là động lực để Nga thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu là phát triển tiềm lực khoa học, kỹ thuật để duy trì và phát triển các ngành sản xuất công nghệ cao chủ yếu. Hiện nay, tổng doanh thu sản phẩm công nghệ cao dân dụng trên thế giới vào khoảng 2.300 tỉ USD. Trong số đó, Mỹ chiếm 39%, Nhật Bản-30%, Đức-16%, Nga chỉ chiếm 0,3%. Hàng năm, nhờ xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao, Mỹ thu về 700 tỉ USD, Đức: 530 tỉ USD, Nhật Bản: 400 tỉ USD.

Trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ, Nga lạc hậu so với Mỹ về số vệ tinh được phóng lên hằng năm và về chất lượng tên lửa mang. Trong khi đó, tiềm tăng của Nga cho phép họ có thể chiếm 50% tổng số các cuộc phóng khí tài vũ trụ và thu về khoảng 10-20 tỉ USD hằng năm.

Hiện nay, Nga đã và đang đàm phán hợp tác với tổ hợp hàng không vũ trụ của các nước khác để cạnh tranh với Mỹ, trước hết trong lĩnh vực phóng vệ tinh nhân tạo. Công nghệ phóng tàu vũ trụ không người lái cho phép Nga tiến hành phóng vài lần trong 1 tháng và về phương diện này, Nga không thua kém gì Mỹ và có thể bảo đảm 30% tổng số các cuộc phóng vệ tinh nhân tạo của Trái đất. Động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng RD-18 của Nga được coi là hiện đại nhất thế giới, có thể cạnh tranh với công nghệ của Mỹ. Ưu thế đặc biệt của Nga là tàu vũ trụ của họ ít gây ô nhiễm môi trường. Thí dụ, tàu vũ trụ “Space Shuttle” của Mỹ tàn phá tầng ô-dôn mạnh gấp 1.800 lần so với tàu vũ trụ của Nga. Ngoài ra, tàu vũ trụ siêu nặng “Proton” của Nga và tên lửa phóng tàu vũ trụ “Energia” của Nga hiện chưa có đối thủ cạnh tranh trên thế giới.

Trong lĩnh vực truyền thông vệ tinh tầm xa, Nga có ưu thế lớn trong hợp tác với các nước. Do đó, Nga đã bắt đầu hợp tác với Pháp và một số nước để xây dựng hệ thống truyền thông vệ tinh, nhằm đưa Nga tiếp cận với thị trường truyền thông vệ tinh quốc tế.

Trong lĩnh vực chế tạo máy bay dân dụng, máy bay vận tải chở khách của Nga có khả năng cạnh tranh một khi có chiến lược sản xuất và xuất khẩu. Các chuyên gia thị trường I-ta-li-a đánh giá, nếu được trang bị nội thất theo tiêu chuẩn châu Âu, máy bay vận tải chở khách YL-96 của Nga sẽ có ưu thế sánh ngang với máy bay chở khách Boeing của Mỹ. Vì thế, hiện I-ta-li-a đang hợp tác với Nga để thực hiện đề án trang bị nội thất cho các máy bay vận tải chở khách của Nga theo tiêu chuẩn hàng đầu thế giới.

Trong lĩnh vực công nghệ hạt nhân, Nga vẫn tiếp tục dẫn đầu, như xuất khẩu trang thiết bị, xây dựng nhà máy điện nguyên tử, chế tạo các lò phản ứng, xuất khẩu dịch vụ làm giàu u-ra-ni và nhiên liệu hạt nhân làm sẵn, máy gia tốc hạt, thiết bị la-de, v.v.. Một trong những hướng triển vọng là dịch vụ bảo quản và xử lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Các xí nghiệp xử lý nhiên liệu hạt nhân hiện có ở Anh và Pháp không chỉ xử lý nhiên liệu đã qua sử dụng của họ mà cả của các nước khác như Đức, I-ta-li-a, Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Thụy Điển, Nhật Bản, và hằng năm thu về 24 tỉ USD nhờ dịch vụ xử lý này. Trong khi đó, Nga chỉ chiếm được 15% tỷ phần của Pháp trên thị trường thế giới về bảo quản và xử lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Nếu tập trung phát triển công nghệ xử lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng, hằng năm Nga có thể thu về 20 tỉ USD.

Vị trí của Nga trên thị trường sản phẩm công nghệ cao quân sự

Trong lĩnh vực này, sản phẩm công nghệ cao của Nga đạt trình độ thế giới, thậm chí nhiều loại sản phẩm quân sự không có đối thủ cạnh tranh do được kế thừa trường phái nghiên cứu thiết kế, chế tạo và sản xuất vũ khí, trang bị quân sự rất độc đáo của Liên Xô trước đây. Hoạt động xuất khẩu vũ khí, trang bị quân sự trong những năm gần đây chứng tỏ Nga vẫn giữ được chất lượng cao. Nhưng trong tương lai, Nga khó có thể giữ được xu hướng gia tăng tỷ lệ xuất khẩu vũ khí, trang bị quân sự trong tổng khối lượng sản xuất công nghệ cao như hiện nay. Nước Nga đang đứng trước nguy cơ có thể trở thành một quốc gia thiếu cơ sở công nghệ thích hợp trong thế kỷ XXI khi các ngành công nghệ dân dụng lạc hậu so với các ngành công nghiệp quốc phòng từ 2 đến 5 lần. Do đó, khó có thể củng cố vị thế của Nga trên thị trường thế giới.

Từ năm 1995 tới nay, Nga luôn duy trì xu hướng gia tăng xuất khẩu vũ khí, trang bị quân sự ra thị trường thế giới, trong đó Mỹ chiếm từ 43% đến 56%; Nga: 17%; Đức: 9%; Anh: 7%; Pháp: 4%, Trung Quốc: 4%. Từ năm 1990 tới nay, tổ hợp công nghiệp quốc phòng của Nga xuất khẩu sản phẩm sang 58 nước.

Hiện nay, Nga đang có những bước đi mạnh mẽ nhằm mở rộng xuất khẩu máy bay quân sự sang các nước châu Á - Thái Bình Dương. Dự báo, tỷ phần nhập khẩu máy bay quân sự của khu vực này chiếm 39% giá trị nhập khẩu của thế giới về loại sản phẩm này. Nhịp độ gia tăng nhập khẩu vũ khí và trang bị hàng không ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương lớn hơn nhịp độ tăng ở các nước khác, do nhiều yếu tố như tại khu vực này hiện vẫn chưa có hệ thống an ninh đa phương, còn có mâu thuẫn giữa các nước trong khu vực, sự phát triển kinh tế năng động và thu nhập ngày càng cao tạo nguồn ngân sách để mua sắm vũ khí trang bị. Nhiều loại vũ khí, trang bị của Nga đã được xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á, như máy bay chiến đấu Su-27, Su-30, MIG-29, tàu ngầm, tàu nổi, tên lửa đối hạm và máy bay trực thăng, v.v..

Một ưu thế quan trọng tạo nên vị thế của Nga trên thị trường sản phẩm quân sự công nghệ cao của thế giới là nhiều loại vũ khí của Nga hiện nay chưa có đối thủ cạnh tranh, trong đó có các loại vũ khí hiện đại nhất như hệ thống tên lửa phòng không S-300 và S-400; máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5; tàu chiến “tàng hình”; tên lửa đường đạn tầm trung. Trong đó, tỷ lệ vũ khí, trang bị hàng không chiếm 55-60% tổng khối lượng xuất khẩu vũ khí, trang bị của Nga.
 
Với ưu thế của ngành sản xuất sản phẩm quân sự công nghệ cao, Nga đang đề ra chiến lược lưỡng dụng hoá công nghệ cao quân sự, đưa các xí nghiệp công nghiệp quốc phòng vừa sản xuất sản phẩm quân sự, vừa sản xuất hàng dân dụng công nghệ cao, tạo ra sự cạnh tranh trên 4 hướng: thành lập các tập đoàn công nghiệp quốc phòng lớn, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế; phát triển các công nghệ độc đáo nhằm tạo ra các sản phẩm quý hiếm, hoặc độc nhất vô nhị; tạo khả năng linh hoạt nhằm thích ứng với nhu cầu thị trường luôn biến đổi; không ngừng cải tiến sản phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tác./.