Nền ngoại giao Việt Nam - 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng

Bùi Thanh Sơn
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

00:01, ngày 27-08-2025

TCCS - Trong suốt chặng đường 80 năm qua từ dấu mốc lịch sử tháng Tám năm 1945, được Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất - sáng lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao Việt Nam luôn giữ vững bản lĩnh cách mạng, phát huy truyền thống vẻ vang, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Ngoại giao Việt Nam in đậm dấu ấn trong từng chặng đường lịch sử của đất nước, từ giành và giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dự Đại hội lần thứ XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1961 _Ảnh: TTXVN

Ngoại giao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước

Ngay từ khi ra đời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức coi trọng vai trò của công tác ngoại giao với tư cách là một phương thức quan trọng để bảo vệ lợi ích dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu, thứ hai là đánh bằng ngoại giao, thứ ba mới đánh bằng binh”(1). Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước sau đó, ngoại giao ghi đậm dấu ấn trong những thắng lợi vẻ vang của dân tộc, từ việc giành và giữ vững độc lập của Tổ quốc ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, đến thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đến sự nghiệp xây dựng Tổ quốc sau chiến tranh.

Trong giai đoạn bảo vệ nền độc lập non trẻ của đất nước, vận nước đứng trước tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”, “thù trong giặc ngoài” (1945 - 1946), ngoại giao đã đóng vai trò tiên phong góp phần giữ vững thành quả cách mạng, bảo toàn chính quyền nhân dân, kéo dài thời gian củng cố lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Thắng lợi nổi bật của ngoại giao giai đoạn này là việc ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, Tạm ước ngày 14-9-1946, cùng những nỗ lực ngoại giao tại các Hội nghị Đà Lạt và Hội nghị Phông-ten-blô (Pháp). Ngoại giao đã ứng xử tài tình cùng lúc với năm nước lớn, đối phó với bốn đạo quân nước ngoài với trên 30 vạn binh lính. Đây là một nước cờ ngoại giao xuất sắc, đưa đất nước vào thế tối ưu nhất có thể trong hoàn cảnh ngặt nghèo lúc bấy giờ.

Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954), ngoại giao vừa phục vụ cuộc kháng chiến, vừa tích cực đấu tranh phá vỡ thế bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ với bên ngoài, tranh thủ sự ủng hộ, chi viện của bạn bè quốc tế. Ngoại giao đã góp phần hình thành liên minh chiến đấu với các nước Lào, Campuchia, thúc đẩy các nước Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa công nhận, đặt quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam, hình thành hậu phương lớn thứ hai cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Phối hợp với mặt trận quân sự, ngoại giao Việt Nam đã phát huy thắng lợi to lớn trên chiến trường, đặc biệt là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ để đẩy mạnh đấu tranh trên bàn hội nghị, buộc các cường quốc trên thế giới ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ đã chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân kéo dài gần 100 năm tại Việt Nam, khẳng định các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, là cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau này.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954 - 1975), trước hoàn cảnh phải “lấy yếu đánh mạnh”, ngoại giao đã trở thành “một mặt trận quan trọng có ý nghĩa chiến lược”(2). Ngoại giao đã tranh thủ sức mạnh của ba dòng thác cách mạng, xây dựng tình đoàn kết và liên minh chiến đấu với các nước Lào và Cam-pu-chia, góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng của mỗi nước; tranh thủ sự giúp đỡ, chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là Liên Xô, Trung Quốc và hình thành mặt trận quốc tế rộng rãi ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Câu nói “Vì Việt Nam, nhân dân Cu-ba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình” của Chủ tịch Cu-ba Phi-đen Ca-xtrơ-rô đã trở thành khẩu hiệu tiêu biểu cho sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ với Việt Nam. Đặc biệt, ngoại giao đã kết hợp với quân sự, chính trị, tạo ra thế trận “vừa đánh, vừa đàm” với đỉnh cao là Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Những thắng lợi trên bàn đàm phán đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ký kết Hiệp định Pa-ri năm 1973, rút toàn bộ quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi để củng cố lực lượng cách mạng Việt Nam. Từ đó, cục diện chiến trường chuyển biến theo hướng có lợi cho cách mạng, tạo thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong giai đoạn tái thiết, xây dựng đất nước và phát triển kinh tế sau chiến tranh (1975 - 1986), ngoại giao là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong đấu tranh đưa đất nước ta thoát khỏi thế bị cô lập về chính trị, bao vây, cấm vận về kinh tế. Sau chiến thắng lịch sử ngày 30-4-1975, ngoại giao tiếp tục khẳng định tính chính nghĩa của nhiệm vụ quốc tế cao cả của Việt Nam là giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt; đồng thời, từng bước thoát khỏi thế bị cô lập về chính trị, bao vây, cấm vận về kinh tế, góp phần đưa đất nước ta vượt qua khó khăn về kinh tế - xã hội. Ta kiên trì khôi phục quan hệ láng giềng hữu nghị với Trung Quốc và các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đấu tranh chống chính sách bao vây, cấm vận, phát triển quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa, không liên kết, từng bước mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển và các liên kết quốc tế. Đây là giai đoạn Việt Nam trở thành thành viên của các tổ chức, diễn đàn đa phương quốc tế lớn, như Phong trào Không liên kết (NAM, năm 1976), Liên hợp quốc (năm 1977).

Tổng Bí thư Tô Lâm đến dự Lễ kỷ niệm 80 năm ngành ngoại giao Việt Nam _Nguồn: nhandan.vn

Ngoại giao trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế

Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), ngoại giao phát huy vai trò tiên phong, đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, mở ra cục diện đối ngoại thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc ngày nay là kết tinh của quá trình đổi mới, mở cửa đất nước trước những biến chuyển trong nước và quốc tế, đã đạt được những kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử.

Bước vào những năm đầu của công cuộc đổi mới, trong bối cảnh đất nước vừa gặp khó khăn về kinh tế - xã hội trong nước, vừa bị các thế lực thù địch chống phá quyết liệt, ngoại giao đã chủ động triển khai nhiều biện pháp, nhờ đó ngoại giao góp phần làm giảm sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, khôi phục đối thoại, đi đến cải thiện quan hệ với các nước lớn và các nước trong khu vực, tạo thế thuận lợi mới cho giai đoạn đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Từ thập niên 90 của thế kỷ XX, thực hiện chủ trương “đa dạng hóa, đa phương hóa”, chúng ta đã mở rộng, nâng cấp, nâng tầm quan hệ quốc tế với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, nước lớn và đối tác quan trọng. Từ một nước bị bao vây, cô lập, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập mạng lưới 38 nước có quan hệ đối tác toàn diện trở lên, trong đó có đầy đủ các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, tất cả các nước ASEAN, toàn bộ các nước thành viên G-7(3), 18/20 nền kinh tế của nhóm G-20(4), là thành viên tích cực của hơn 70 liên kết quốc tế. Việc nâng tầm, nâng cấp quan hệ với các đối tác chủ chốt, quan trọng đã tạo nên tầm vóc chiến lược mới, đưa hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo nền tảng cho sự phát triển quan hệ lâu dài và bền vững, mở ra cục diện đối ngoại thuận lợi hơn bao giờ hết cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với quốc phòng, an ninh, ngoại giao góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Các vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực. Đồng thời, đấu tranh hiệu quả với hoạt động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển; thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những vấn đề tồn tại, thực thi đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), tích cực tham gia xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Ngoại giao cũng đã tích cực tham gia đấu tranh trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Ngoại giao đa phương nâng cao vai trò, vị thế Việt Nam, khẳng định Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Việt Nam gia nhập ASEAN, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và từng bước mở rộng, thúc đẩy quan hệ quốc tế, từ gia nhập, tham gia đến chủ động, tích cực đóng góp thực chất, là thành viên có trách nhiệm tại các diễn đàn đa phương và quốc tế. Chúng ta đã tham gia khởi xướng, định hình nhiều cơ chế hợp tác mới, như Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)... Triển khai Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”, Việt Nam đã chuyển từ chủ trương tham dự, sang chủ động phát huy vai trò “thành viên có trách nhiệm”; hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế lớn, tham gia xây dựng luật chơi trên các diễn đàn khu vực và toàn cầu quan trọng, như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), các cơ chế Tiểu vùng sông Mê Công, Phong trào không liên kết, Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ (OIF).…; mở rộng đóng góp vào nỗ lực gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, cứu hộ, cứu nạn quốc tế. Chúng ta đã hai lần đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008 - 2009 và 2020 - 2021), hai lần là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016 và 2023 - 2025), tham gia 6/7 cơ chế điều hành then chốt của UNESCO...

Ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển phát huy vai trò là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, hiện thực hóa các mục tiêu phát triển và nâng cao đời sống của nhân dân. Từ một đất nước lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, đến nay nền kinh tế Việt Nam đang vươn lên mạnh mẽ, nằm trong tốp 32 nền kinh tế hàng đầu về quy mô tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Công cuộc hội nhập quốc tế của Việt Nam đã chuyển từ hội nhập kinh tế đơn thuần sang hội nhập toàn diện, sâu rộng. Đến nay, chúng ta đã có quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; ký kết và triển khai 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới. Triển khai Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 10-8-2022, của Ban Bí thư, “Về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ đất nước đến năm 2030”, đối ngoại và ngoại giao đã huy động nhiều nguồn lực quan trọng, như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA), đưa Việt Nam gia nhập nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất và thu hút đầu tư nước ngoài hàng đầu thế giới; trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế thông qua hơn 500 FTA song phương và đa phương; vận động các đối tác lớn trong các lĩnh vực mới, như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, tham gia các chuỗi cung ứng và cải thiện vị trí Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Các lĩnh vực công tác đối ngoại tiếp tục được triển khai hiệu quả, toàn diện. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện tốt chính sách chăm lo của Đảng và Nhà nước đối với gần 6 triệu bà con kiều bào, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động nguồn lực cho phát triển với hàng nghìn dự án đầu tư và hàng tỷ USD kiều hối hằng năm. Công tác bảo hộ công dân tích cực bảo vệ an ninh, an toàn, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, doanh nghiệp Việt Nam, nhất là tại vùng chiến sự, thiên tai, mất ổn định. Thông tin đối ngoại quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước, con người, văn hóa, thành tựu đổi mới với nội dung, phương thức sáng tạo. Ngoại giao văn hóa vận động thành công UNESCO công nhận 72 di sản, danh hiệu, qua đó gìn giữ các giá trị văn hóa dân tộc và huy động các nguồn lực mới cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các địa phương.

Nhìn lại chặng đường 80 năm qua của ngành ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng, những thành tựu vĩ đại đó đạt được là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tài tình của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ lãnh đạo của Đảng, sự đóng góp to lớn của các nhà ngoại giao xuất sắc, như Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Xuân Thủy, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Cơ Thạch… -  các biểu tượng đầy bản lĩnh, trí tuệ của ngoại giao Việt Nam. Ngoại giao thực sự trở thành nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, các trụ cột đối ngoại phát huy sức mạnh tổng thể, đồng bộ: ngoại giao nhà nước kết hợp nhuần nhuyễn với đối ngoại đảng và đối ngoại nhân dân…

Bên cạnh kết quả quan trọng, việc triển khai công tác đối ngoại vẫn còn một số hạn chế, như việc tranh thủ yếu tố thuận lợi từ cục diện quốc tế chưa đạt hiệu quả cao; hợp tác trong khuôn khổ quan hệ đã thiết lập chưa được khai thác tối đa, nhất là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, quốc phòng - an ninh, khoa học - công nghệ; công tác nghiên cứu, tham mưu còn có lúc chưa nhạy bén, kịp thời. Nguyên nhân của hạn chế có yếu tố khách quan do tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, khó lường, xuất hiện nhiều vấn đề mới chưa có tiền lệ khiến việc ứng phó gặp nhiều khó khăn, song chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, xuất phát từ năng lực của ta còn hạn chế.

Những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại đã để lại nhiều bài học quý báu cho việc triển khai công tác đối ngoại, ngoại giao thời gian tới: Một là, bài học về bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong suốt chặng đường 80 năm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngoại giao Việt Nam luôn thấm nhuần lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh  về ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ”; tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”; hai là, bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, sự nhạy bén trong nhận định và nắm bắt tình hình, quyết đoán trong việc đưa ra chính sách, biện pháp cụ thể; ba là, bài học về sự kết hợp nhuần nhuyễn nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; huy động được sự ủng hộ to lớn cả về vật chất và tinh thần đối với Việt Nam của nhân loại tiến bộ...

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại Phiên thảo luận chung cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 79, ngày 24-9-2024 _Ảnh: TTXVN

Phát huy vai trò “tiên phong, trọng yếu, thường xuyên” của ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Trong những năm tới đây, tình hình thế giới được dự báo sẽ tiếp tục xu hướng diễn biến khó lường, phức tạp. Cục diện thế giới sẽ tiếp tục vận động theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc với nhiều chuyển động sâu rộng về chính trị, an ninh, kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ. Xung đột cục bộ, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên nhiều khả năng sẽ tiếp diễn với tính chất đa chiều hơn, diễn ra trên không gian mới và với hình thái đa dạng. Kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng thiếu ổn định do căng thẳng địa - chính trị tại nhiều khu vực. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục gay gắt, toàn diện kéo theo sự phân tuyến, phân tách rõ nét trên nhiều lĩnh vực, tác động liên thông tới lợi ích an ninh, phát triển của quốc gia.

Ở trong nước, giai đoạn sắp tới có ý nghĩa bản lề, nước rút trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, mở ra kỷ nguyên phát triển mới của đất nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, song cũng đặt ra không ít thách thức, đòi hỏi quyết sách mang tính cách mạng để kịp thời nắm bắt và vượt qua. Trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngoại giao Việt Nam phấn đấu tiếp tục vươn lên tầm cao mới để hoàn thành trọng trách vinh quang mới theo tinh thần đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên.

Thấm nhuần tư tưởng đó, ngoại giao Việt Nam sẽ kế thừa và phát huy truyền thống ngoại giao của các bậc tiền nhân, những bài học mang giá trị vượt thời gian của 80 năm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không ngừng đổi mới sáng tạo để phù hợp với bối cảnh tình hình mới; chủ động, tích cực đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của đất nước. Trong đó, phương hướng quan trọng là:

Thứ nhất, phát huy vai trò tiên phong, “trọng yếu, thường xuyên” trong tạo lập và củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi, thực hiện ba mục tiêu chiến lược của đối ngoại là an ninh, phát triển và vị thế của đất nước. Mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia của Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; đóng góp vào việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao vai trò và vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Điều này đòi hỏi ngoại giao nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng - an ninh, kinh tế, văn hóa với các nước; tiếp tục đưa các mối quan hệ đối tác của ta, trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, củng cố và tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế.

Thứ hai, đối ngoại đóng vai trò kiến tạo và động lực, mở ra cơ hội mới cho đất nước, kết nối nội lực với ngoại lực, trong đó nội lực là cơ bản, lâu dài, ngoại lực là yếu tố quan trọng, mang tính đột phá. Đó là nguồn lực về thương mại, đầu tư; xu thế phát triển và liên kết kinh tế; trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm, dựa trên luật pháp quốc tế; cùng sức mạnh của kỷ nguyên cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức... Từ kinh nghiệm của các nước đi trước, trong giai đoạn bứt phá, nhiệm vụ của đối ngoại là định vị đất nước vào vị thế tối ưu trong xu thế, trào lưu phát triển chính của thế giới; đồng thời, khơi thông, kết nối hợp tác với các đối tác hàng đầu trong các lĩnh vực mang tính đột phá, chiến lược, như trí tuệ nhân tạo, vật liệu bán dẫn… Chỉ thị số 05/CT-TTg, ngày 1-3-2025, của Thủ tướng Chính phủ, về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên, chỉ ra nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá, trong đó có việc tiếp tục tăng cường ngoại giao kinh tế, ngoại giao công nghệ.

Thứ ba, nâng tầm đóng góp của Việt Nam đối với hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại. Thế và lực mới của đất nước cho phép chúng ta có điều kiện tham gia sâu hơn, trách nhiệm hơn vào việc giải quyết các vấn đề chung của thế giới; tương lai, vận mệnh của đất nước gắn liền với hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới(5). Việt Nam không chỉ tham gia xây dựng, định hình thể chế đa phương, mà còn phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong những vấn đề, cơ chế quan trọng, phù hợp với lợi ích và điều kiện của đất nước. Theo đó, Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy hơn nữa đóng góp tại diễn đàn đa phương, đặc biệt là thúc đẩy sáng kiến mới; thể hiện vai trò nòng cốt trong xây dựng Cộng đồng ASEAN, đồng thời củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực; tham gia tích cực trong khuôn khổ hoạt động của Liên hợp quốc, nhất là trong triển khai các Mục tiêu phát triển bền vững và tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình…

Thứ tư, phát huy “sức mạnh mềm” của dân tộc, gia tăng hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong kỷ nguyên mới, “sức mạnh mềm” của đất nước không chỉ là nguồn lực quan trọng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mà còn là cầu nối gắn kết Việt Nam với thế giới, vun đắp tình hữu nghị giữa các quốc gia. Trong đó, ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại và công tác người Việt Nam ở nước ngoài là các kênh đắc lực để xây dựng lòng tin, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tạo dựng mối quan hệ gắn bó, tin cậy lâu dài, qua đó tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của các nước, bạn bè quốc tế và bà con kiều bào đối với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam.

Thứ năm, nâng cao chất lượng nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược trong hoạch định chính sách đối ngoại, góp phần làm sâu sắc nền tảng lý luận của Đảng về đối ngoại. Trong bối cảnh thế giới biến động hiện nay, công tác nghiên cứu và dự báo giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thế chủ động chiến lược. Ngoại giao cần nhạy bén trong nhận diện xu hướng chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội trong khu vực và trên thế giới, nhất là trước tác động như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Qua đó, tranh thủ tốt xu thế quốc tế, đánh giá đúng chiều hướng vận động trong chính sách và quan hệ giữa các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn nhằm tham mưu các quyết sách, bước đi đối ngoại phù hợp.

Thứ sáu, xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của kỷ nguyên mới. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, ngoại giao nghị viện, đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp cần đi vào chiều sâu, bền vững. Bên cạnh đó, cần bố trí nguồn lực thích đáng để bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, hạ tầng và chế độ đãi ngộ phù hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(6), công tác cán bộ phải đáp ứng được yêu cầu của kỷ nguyên mới; theo đó, thế hệ cán bộ trong giai đoạn mới không chỉ có trình độ, năng lực và bản lĩnh chính trị, mà còn phải dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, ngày càng chuyên nghiệp, ngang tầm khu vực và quốc tế. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện nền tảng lý luận về đối ngoại, xây dựng trường phái ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh trên cơ sở truyền thống lịch sử ngoại giao Việt Nam và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.

Tựu trung, sau 80 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu lịch sử, làm rạng danh Việt Nam trên bản đồ thế giới. Trong mỗi chiến thắng vĩ đại của dân tộc đều có dấu ấn đóng góp quan trọng của ngoại giao. Bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc, ngành ngoại giao Việt Nam tiếp tục nỗ lực hết mình, viết tiếp trang sử vẻ vang của ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, tận lực, tận tâm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phát huy tinh thần tiên phong, chủ động, tích cực tạo đà, tạo thế góp phần đưa đất nước vững bước tiến lên nấc thang phát triển mới./.

---------------------

(1)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 562
(2)  Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1969, t. 30, tr. 106
(3) G-7 là Nhóm các nền công nghiệp hàng đầu thế giới, bao gồm các nước Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a, Ca-na-đa
(4) G-20 thường được biết đến với tên gọi: Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới, bao gồm 19 quốc gia và Liên minh châu Âu. Gần đây, Liên minh châu Phi (AU) đã trở thành thành viên mới nhất của G-20
(5) TTXVN/Báo Tin tức: “Phát biểu của Chủ tịch nước Lương Cường tại hội thảo quốc tế về vai trò kiến tạo hòa bình của ngoại giao”, Báo điện tử Tin tức - Thông tấn xã Việt Nam, ngày 23-4-2025, https://baotintuc.vn/thoi-su/phat-bieu-cua-chu-tich-nuoc-luong-cuong-tai-hoi-thao-quoc-te-ve-vai-tro-kien-tao-hoa-binh-cua-ngoai-giao-20250423113213458.htm
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309