Phát triển kinh tế bạc trong kỷ nguyên mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản trị kiến tạo của Nhà nước, sự đồng thuận của xã hội
18:27, ngày 07-12-2025
TCCS - Già hóa dân số là xu thế không thể đảo ngược của thế kỷ XXI, đặt ra yêu cầu cấp bách đổi mới tư duy phát triển và phương thức quản trị xã hội nhằm chuyển hóa thách thức thành động lực thúc đẩy tăng trưởng bền vững của nhiều quốc gia. Trên thế giới, việc điều chỉnh hoạt động kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người cao tuổi (kinh tế bạc) đã được đề cập. Đối với Việt Nam, trong bối cảnh già hóa dân số, kinh tế bạc cần được nghiên cứu để trở thành một cấu phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Định hướng này góp phần hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về người cao tuổi trong kỷ nguyên mới, bảo đảm phát triển bao trùm và bền vững.
Tổng Bí thư Tô Lâm thăm hỏi các đại biểu là người cao tuổi tiêu biểu _Nguồn: TTXVN
Cơ sở lý luận - chính trị và bối cảnh phát triển kinh tế bạc
Trong tiến trình lịch sử dân tộc, hào khí Diên Hồng mãi là biểu tượng rực rỡ của tinh thần yêu nước và trí tuệ Việt Nam, khẳng định vai trò tiên phong của các bậc phụ lão trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Truyền thống “Tôn lão, trọng hiền” đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy nhất quán trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, người cao tuổi - “lớp người xưa nay hiếm” luôn nêu gương, đóng góp thiết thực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đến củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Từ góc nhìn phát triển, việc chuyển định vị người cao tuổi từ “đối tượng an sinh” sang “nguồn lực và chủ thể sáng tạo” không chỉ là điều chỉnh chính sách, mà là đổi mới tư duy phát triển trên nền tảng văn hóa - lịch sử dân tộc, phù hợp xu thế của thời đại số và kỷ nguyên tuổi thọ. Đây là biểu hiện sinh động của quan điểm nhân văn nhất quán trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và được khẳng định rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng lấy “con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(1).
Trong bối cảnh kỷ nguyên số, người cao tuổi đang trở thành một nguồn lực quan trọng, không chỉ trong hoạt động cộng đồng, mà còn trong chuỗi giá trị của nền kinh tế hiện đại. Sự phát triển của y học, cải thiện điều kiện sống và chất lượng chăm sóc sức khỏe làm gia tăng nhanh nhóm người cao tuổi khỏe mạnh, có tri thức, kinh nghiệm và năng lực thích ứng xã hội cao. Họ không còn là “lực lượng nghỉ hưu”, mà là “nguồn lực tái đóng góp”, hiện diện ở nhiều lĩnh vực, như nông nghiệp công nghệ cao, thương mại - dịch vụ, giáo dục - y tế, du lịch - văn hóa, công nghệ thông tin và truyền thông. Hàng triệu người cao tuổi đang tiếp tục sản xuất, kinh doanh, cố vấn quản trị, truyền nghề, giảng dạy, sáng tạo nghệ thuật, nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp xã hội, tham gia hoạt động từ thiện và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Không ít người cao tuổi là doanh nhân lão luyện, nghệ nhân nhân dân, thầy thuốc nhân dân, nhà giáo nhân dân, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số... - những người âm thầm lan tỏa giá trị sống tốt đẹp và kinh nghiệm nghề nghiệp cho con cháu.
Cùng với sự phát triển của công nghệ, quá trình số hóa đời sống xã hội đã mở ra cơ hội mới để người cao tuổi học tập, giao tiếp, tham gia hoạt động kinh tế và cống hiến tri thức. Phong trào “bình dân học vụ số”, lớp học trực tuyến, câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau, mạng lưới cộng đồng chăm sóc và hỗ trợ nhau tại địa phương đang trở thành hình mẫu của mô hình phát triển cộng đồng thích ứng già hóa dân số. Mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau được nhân rộng toàn quốc theo Quyết định số 1336/QĐ-TTg, ngày 31-8-2020, của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án nhân rộng mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau giai đoạn đến năm 2025 đã chứng minh tính hiệu quả trong việc tổ chức cộng đồng, hỗ trợ sinh kế, chăm sóc sức khỏe, phòng, chống bạo lực, cô đơn và tăng cường gắn kết xã hội ở cơ sở - một nền tảng quan trọng của an sinh bền vững và phát triển bao trùm.
Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi ngày càng được hoàn thiện, tạo nền tảng cho việc phát huy vai trò của người cao tuổi trong thời kỳ mới. Quyết định số 383/QĐ-TTg, ngày 21-2-2025, của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược quốc gia về người cao tuổi đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045 xác định rõ: Người cao tuổi là nguồn lực quan trọng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cần phát huy tối đa tiềm năng, kinh nghiệm, tri thức và uy tín xã hội của họ trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, việc làm, kinh tế và chính trị, phù hợp với nguyện vọng, khả năng của từng nhóm đối tượng. Chiến lược đồng thời đặt trọng tâm vào việc hoàn thiện thể chế, chính sách khuyến khích người cao tuổi tham gia thị trường lao động thông qua tín dụng ưu đãi, chính sách thuế, đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, bảo hiểm chăm sóc dài hạn và mở rộng dịch vụ xã hội chuyên biệt. Cùng với đó là việc triển khai các chương trình mục tiêu, như Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2021 - 2030, Phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp, Nhân rộng mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau,... hướng tới xây dựng hệ sinh thái dịch vụ chăm sóc, học tập, việc làm và sáng tạo dành cho người cao tuổi.
Trên bình diện quốc tế, già hóa dân số là xu thế toàn cầu và là một trong những vấn đề lớn của thế kỷ XXI. Liên hợp quốc đã khởi xướng Thập niên hành động vì già hóa khỏe mạnh (2021 - 2030) và lồng ghép mục tiêu này trong Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (SDGs), coi “già hóa khỏe mạnh” là trụ cột của phát triển bền vững. Nhiều quốc gia phát triển đã chuyển áp lực già hóa thành động lực tăng trưởng bằng cách phát triển hệ sinh thái dịch vụ thân thiện với người cao tuổi, thúc đẩy công nghệ hỗ trợ, quy hoạch đô thị thích ứng, tài chính hưu trí, giáo dục suốt đời và chăm sóc dài hạn. Trong các mô hình thành công, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, bảo vệ quyền lợi người cao tuổi; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, cung ứng dịch vụ chất lượng cao; xã hội dân sự tham gia giám sát, hỗ trợ cộng đồng; người cao tuổi vừa là người thụ hưởng, vừa là chủ thể sáng tạo. Kinh nghiệm này mang lại hàm ý quan trọng cho Việt Nam trong việc hoạch định chính sách phù hợp với điều kiện văn hóa, thể chế và nguồn lực quốc gia.
Phát triển kinh tế bạc ở Việt Nam cần được đặt trong tổng thể phát triển đồng bộ, hài hòa giữa văn hóa với chính trị, kinh tế và xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt bằng thể chế, tiêu chuẩn, quy chuẩn, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cao tuổi. Thị trường cần vận hành trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy xã hội hóa theo quy định của pháp luật, bảo đảm sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Mọi chính sách, chương trình, dự án phải lấy người cao tuổi làm trung tâm, tôn trọng quyền lựa chọn, bảo đảm tính bao trùm, công bằng, an toàn và bền vững tài chính. Quản trị phát triển phải dựa trên kết quả đầu ra, dựa trên dữ liệu và bằng chứng, đo lường được chất lượng, hiệu quả và mức độ hài lòng của người cao tuổi. Đồng thời, cần gắn kết mục tiêu ngắn hạn với tầm nhìn dài hạn, bảo đảm ổn định vĩ mô, nâng cao khả năng chống chịu và thích ứng trước biến động toàn cầu.
Từ cơ sở lý luận - chính trị và thực tiễn phát triển trong nước, có thể khẳng định: kinh tế bạc không chỉ là một lĩnh vực kinh tế mới mẻ, mà còn là biểu hiện sinh động của tư duy phát triển con người toàn diện, là nội dung cụ thể hóa quan điểm “phát triển bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau” mà Đảng ta nhiều lần nhấn mạnh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản trị kiến tạo của Nhà nước, sự đồng thuận của toàn xã hội, phát triển kinh tế bạc sẽ góp phần quan trọng hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về người cao tuổi Việt Nam, đóng góp tích cực vào tăng trưởng bền vững, củng cố an sinh xã hội và phát huy giá trị văn hóa - con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Trọng tâm cần làm là hoàn thiện khung pháp lý, chuẩn hóa chất lượng dịch vụ, phát triển hạ tầng số và nguồn nhân lực, bảo vệ quyền lợi người cao tuổi, khuyến khích người cao tuổi tham gia thị trường lao động phù hợp năng lực.
Người cao tuổi trình diễn dân vũ tại Ngày hội sức khỏe người cao tuổi Việt Nam năm 2025 _Nguồn: hanoimoi.vn
Đặc trưng, cấu trúc vận hành và các vấn đề then chốt trong phát triển kinh tế bạc
Trong bối cảnh già hóa dân số diễn ra nhanh và sâu rộng, kinh tế bạc đang nổi lên như một mô hình phát triển kinh tế - xã hội thích ứng, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh, nhân văn. Đây không chỉ là phản ứng chính sách trước thách thức nhân khẩu học, mà còn là bước tiến mới trong tư duy phát triển con người toàn diện, phù hợp tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu “Phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết, chặt chẽ, hiệu quả giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh”(2).
Kinh tế bạc, theo nhiều nghiên cứu, được hiểu là hệ thống hoạt động kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người cao tuổi, thông qua cơ chế, chính sách của Nhà nước, sự tham gia của thị trường, sự đồng thuận của toàn xã hội. Trong hệ sinh thái này, người cao tuổi vừa là người thụ hưởng dịch vụ, vừa là chủ thể sáng tạo giá trị; Nhà nước giữ vai trò định hướng - kiến tạo - điều phối; thị trường đảm nhiệm phân bổ nguồn lực; xã hội thực hiện giám sát và hỗ trợ. Mục tiêu là nâng cao chất lượng sống, bảo đảm phúc lợi, đồng thời mở ra không gian tăng trưởng mới cho nền kinh tế, tận dụng tri thức, kinh nghiệm, uy tín xã hội của lớp người cao tuổi.
Từ góc nhìn cấu trúc, kinh tế bạc vận hành theo bộ ba logic: nhu cầu - cung ứng - kết quả.
Thứ nhất, nhu cầu của người cao tuổi mang tính đa chiều, từ chăm sóc sức khỏe dự phòng, phát hiện sớm, điều trị, phục hồi chức năng, đến chăm sóc dài hạn tại nhà, cộng đồng, cơ sở chuyên biệt. Bên cạnh đó là nhu cầu về không gian sống, giao thông, đô thị thân thiện; thiết bị và công nghệ hỗ trợ (trợ thính, cảnh báo ngã, giám sát từ xa); tài chính hưu trí, bảo hiểm chăm sóc dài hạn; việc làm linh hoạt; học tập suốt đời; văn hóa, thể thao, du lịch và hoạt động tình nguyện phù hợp.
Thứ hai, cung ứng dịch vụ cần được thiết kế theo hệ sinh thái liên thông, kết nối giữa các lĩnh vực: y tế - chăm sóc - phục hồi gắn với công nghệ; nhà ở - đô thị thích ứng; tài chính - bảo hiểm; giáo dục suốt đời; văn hóa - du lịch; hỗ trợ pháp lý - xã hội.
Thứ ba, kết quả đầu ra cần được đo lường cụ thể qua chỉ số sức khỏe, mức độ hài lòng, an toàn, công bằng, bền vững tài chính, cũng như qua mức gia tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) nhờ phát huy tri thức và kinh nghiệm của người cao tuổi.
Từ nền tảng đó, một số vấn đề then chốt cần được lưu ý khi hình thành và phát triển kinh tế bạc:
Thể chế - chính sách dẫn dắt. Nghiên cứu xác lập vị thế của kinh tế bạc như một cấu phần trong cơ cấu kinh tế quốc dân, được lồng ghép trong các chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2035. Đồng thời, phải đồng bộ hóa công cụ chính sách, tiêu chuẩn - quy chuẩn dịch vụ, chuyển từ tiếp cận an sinh thuần túy sang thể chế kiến tạo. Việc hoàn thiện khung pháp lý bảo vệ người tiêu dùng cao tuổi là yêu cầu quan trọng. Cần quy định rõ trách nhiệm công khai chất lượng, giá cả dịch vụ, cơ chế bảo hành, khiếu nại và biện pháp xử lý nghiêm hành vi gian lận, quảng cáo sai lệch hoặc bán hàng đa cấp trá hình nhằm vào người cao tuổi. Chuẩn hóa tiêu chuẩn - quy chuẩn cho các nhóm dịch vụ trọng điểm, như chăm sóc dài hạn, phục hồi chức năng, không gian sống - đô thị thích ứng, công nghệ hỗ trợ, giáo dục suốt đời, du lịch - văn hóa thân thiện, tài chính hưu trí. Chuẩn mực này sẽ là cơ sở để kiểm định chất lượng, định giá dịch vụ, thực hiện dịch vụ ngân hàng, tài chính.
Cơ chế đặt hàng - đấu thầu - định giá cần gắn với kết quả đầu ra, khuyến khích mô hình phòng ngừa, phục hồi sớm, chăm sóc cộng đồng; công khai cấu phần chi phí để tăng trách nhiệm giải trình. Thiết kế ưu đãi thuế, tín dụng có điều kiện đối với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đạt chuẩn; khuyến khích khởi nghiệp và hình thành “cụm dịch vụ bạc” tại địa bàn có điều kiện; bố trí quỹ đất cho hạ tầng chăm sóc dài hạn, phục hồi chức năng và công nghệ hỗ trợ; bảo đảm sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nhất là khu vực tư nhân và hợp tác xã dịch vụ.
Thị trường - liên kết chuỗi chuyên nghiệp. Hiện nay, cung ứng dịch vụ cho người cao tuổi ở Việt Nam vẫn phân tán, thiếu chuẩn hóa, yếu về liên kết chuỗi, cơ chế thanh toán chưa khuyến khích phòng ngừa - phục hồi sớm. Vì vậy, cần chuẩn hóa quy trình chăm sóc theo hướng cá thể hóa, quản lý ca; thiết lập cơ chế phối hợp chuyển tuyến giữa y tế và xã hội; phát triển trung tâm dịch vụ tích hợp làm đầu mối liên thông, thúc đẩy hợp tác công - tư để mở rộng năng lực cung ứng, nhưng vẫn giữ vững chuẩn mực chất lượng. Nhà nước cần công bố xếp hạng chất lượng cơ sở cung ứng, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm vi phạm, đồng thời bảo đảm minh bạch thông tin trên nền tảng số nhằm củng cố niềm tin của người tiêu dùng và thị trường.
Hạ tầng số và dữ liệu liên thông - công cụ quản trị hiện đại của nền kinh tế bạc. Việc triển khai ba lớp hạ tầng số nền tảng là yêu cầu cấp bách: i- Định danh số người cao tuổi, giúp xác thực nhanh, giảm thủ tục, miễn thủ tục đối với một số nhóm người đặc biệt cao tuổi, phòng ngừa gian lận và tạo điều kiện tiếp cận dịch vụ số an toàn; ii- Hồ sơ sức khỏe điện tử liên thông với dữ liệu an sinh - bảo hiểm - lao động, cho phép theo dõi chất lượng dịch vụ theo thời gian thực và gắn kết lĩnh vực y tế, xã hội, bảo hiểm; iii- Nền tảng kết nối cung - cầu dịch vụ nhằm minh bạch thông tin, giảm bất cân xứng, tối ưu phân bổ và tạo kho dữ liệu phục vụ quy hoạch, dự báo, đánh giá chính sách. Cùng với đó là hình thành chuẩn dữ liệu thống nhất, cơ chế phân quyền - truy cập rõ ràng, bảo đảm an toàn thông tin và giao diện thân thiện phù hợp với người cao tuổi.
Nhân lực chất lượng cao. Chăm sóc người cao tuổi, đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc dài hạn, đòi hỏi chuẩn nghề nghiệp khắt khe, kết hợp chuyên môn y học, xã hội, tâm lý, phục hồi chức năng, dinh dưỡng và an toàn. Xây dựng khung năng lực và chương trình đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học; cơ chế bồi dưỡng thường xuyên; hệ thống kiểm định chất lượng cơ sở cung ứng và bộ tiêu chí đánh giá năng lực cá nhân. Có cơ chế cấp, gia hạn, thu hồi chứng chỉ hành nghề dựa trên chuẩn mực đạo đức và chất lượng phục vụ. Bên cạnh lực lượng chuyên nghiệp, cần phát triển mạng lưới tình nguyện viên cộng đồng được huấn luyện cơ bản để hỗ trợ hoạt động không đòi hỏi can thiệp y khoa, đồng thời bồi dưỡng kỹ năng số cho người cao tuổi để người cao tuổi có thể tham gia và hưởng lợi bình đẳng trong nền kinh tế số.
Tuyên truyền - đồng thuận xã hội. Thay đổi nhận thức và hành vi là điều kiện tiên quyết để kinh tế bạc phát triển bền vững. Chuyển từ định kiến “người cao tuổi lui về hậu trường” sang nhận diện người cao tuổi là chủ thể sáng tạo, từ tâm thế thụ động sang chủ động tham gia, lựa chọn và giám sát dịch vụ. Chính sách truyền thông phải “trúng - đúng - đủ”, với người cao tuổi, tập trung hướng dẫn quyền tiếp cận dịch vụ an toàn, sử dụng công nghệ hỗ trợ, phòng tránh hành vi lợi dụng công nghệ lừa đảo; với gia đình, bồi dưỡng kỹ năng chăm sóc, tâm lý học tuổi già; với doanh nghiệp, nhấn mạnh trách nhiệm xã hội và chuẩn hóa chất lượng; với cán bộ thực thi, đề cao đạo đức, trách nhiệm công vụ. Phong trào “Sống khỏe - sống vui - sống có ích”, tôn vinh gương điển hình, nhân rộng mô hình tốt, cách làm hay sẽ tạo động lực tinh thần và củng cố niềm tin xã hội.
Tiếp thu kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam. Việc tiếp cận kinh nghiệm quốc tế về mô hình dịch vụ, tiêu chuẩn nghề, cơ chế định giá, thanh toán, quản trị dữ liệu... là cần thiết, nhưng phải chọn lọc, không sao chép máy móc, bảo đảm phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam. Triển khai thí điểm ở một số địa phương, phân tích hiệu quả, công bằng, bền vững; phát hiện điểm nghẽn thể chế; kiến nghị hoàn thiện chính sách dựa trên bằng chứng dữ liệu. Tổng kết thực tiễn phải gắn với hệ thống dữ liệu số - từ hồ sơ sức khỏe điện tử, phản hồi người dùng đến kết quả cung - cầu - để chính sách thật sự “bám đất, bám dân”, có khả năng nhân rộng và lan tỏa trong toàn quốc.
Như vậy, kinh tế bạc không chỉ là lĩnh vực kinh tế mới, mà còn là phương thức phát triển xã hội nhân văn, thể hiện rõ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về người cao tuổi.
Khuyến khích người cao tuổi tham gia thị trường lao động phù hợp năng lực _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Một số vấn đề khuyến nghị
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản trị kiến tạo của Nhà nước, sự đồng thuận của toàn xã hội, phát triển kinh tế bạc cần trở thành động lực mới cho tăng trưởng bền vững, củng cố an sinh xã hội và phát huy giá trị văn hóa - con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Để lĩnh vực này thực sự trở thành động lực mới của phát triển, một số vấn đề sau cần được cân nhắc:
Thứ nhất, kiến tạo thể chế dẫn dắt trên cơ sở định hướng ở tầm văn kiện - chiến lược. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Đảng ta khẳng định “con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(3). Từ tinh thần đó, việc nghiên cứu đưa nội dung phát triển kinh tế bạc vào Văn kiện của Đảng, nhằm định vị đây là cấu phần hữu cơ của chiến lược phát triển đất nước, tạo căn cứ chính trị thống nhất mục tiêu, lộ trình và phân bổ nguồn lực. Cần tổng kết Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 27-9-1995, của Ban Bí thư khóa VII “Về chăm sóc người cao tuổi” để ban hành chủ trương mới phù hợp bối cảnh hiện nay, thể hiện rõ phương châm: người cao tuổi vừa là đối tượng thụ hưởng, vừa là chủ thể sáng tạo. Triển khai Chiến lược quốc gia về người cao tuổi đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045, giao rõ trách nhiệm, đầu mối thực hiện và ưu tiên chính sách khuyến khích người cao tuổi tham gia thị trường lao động, trong đó chú trọng đào tạo lại và bồi dưỡng kỹ năng số.
Hoàn thiện khung chính sách cho “thị trường bạc” theo hướng đồng bộ, dễ tiếp cận và có khả năng bảo vệ người tiêu dùng cao tuổi. Trọng tâm là thiết lập khung pháp lý về công khai chất lượng - giá, nghĩa vụ thông tin, bảo hành và kênh khiếu nại độc lập; xử lý nghiêm hành vi gian lận, quảng cáo sai lệch, bán hàng đa cấp trá hình. Áp dụng cơ chế đặt hàng - đấu thầu - định giá gắn kết quả, chuyển từ chi trả đầu vào sang chi trả theo giá trị đầu ra, khuyến khích dịch vụ phòng ngừa, phục hồi, chăm sóc cộng đồng. Khuyến khích hình thành “cụm dịch vụ bạc”, mở rộng ưu đãi có điều kiện về thuế, tín dụng đối với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đạt chuẩn; bố trí quỹ đất cho hạ tầng chăm sóc dài hạn, công nghệ hỗ trợ và đô thị thích ứng. Đa dạng hóa nguồn vốn (ngân sách, bảo hiểm, tín dụng ưu đãi, hợp tác công - tư, nguồn vốn xã hội hóa), xây dựng cơ chế tài chính bền vững, dễ tiếp cận cho “hệ sinh thái bạc”, gắn với quản trị rủi ro.
Về điều phối vĩ mô, dữ liệu, nhân lực và quyền hạn trong nghiên cứu, đề xuất chính sách, cần nghiên cứu tăng cường vai trò của cơ quan quốc gia về người cao tuổi Việt Nam trong điều phối liên ngành, gắn chỉ tiêu kết quả với trách nhiệm người đứng đầu; công khai tiến độ và kết quả thực hiện hằng năm để xã hội giám sát. Hoàn thiện ba lớp hạ tầng số nền tảng bao gồm định danh số người cao tuổi; hồ sơ sức khỏe điện tử liên thông với dữ liệu an sinh - bảo hiểm - lao động và nền tảng kết nối cung - cầu dịch vụ, bảo đảm khả năng kết nối, tìm kiếm thông tin, an toàn dữ liệu, giao diện thân thiện, không rào cản số. Về nhân lực, cần chuẩn hóa nghề chăm sóc dài hạn, xây dựng khung năng lực, chương trình đào tạo, kiểm định chất lượng cơ sở cung ứng và cơ chế cấp - gia hạn chứng chỉ hành nghề; đồng thời, phát triển mạng lưới tình nguyện viên cộng đồng và mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo, công nhận chứng chỉ nghề.
Thúc đẩy chính sách then chốt theo hướng thí điểm - nhân rộng. Từng bước thiết kế bảo hiểm chăm sóc dài hạn tích hợp y tế - phục hồi - hỗ trợ tại nhà với cơ chế đồng chi trả phù hợp, gắn chuẩn chất lượng và bảo vệ người dùng. Triển khai cơ chế thử nghiệm chính sách có kiểm soát (sandbox) cho mô hình đô thị thích ứng tuổi già, trung tâm dịch vụ tích hợp, nền tảng số kết nối dịch vụ, có đánh giá độc lập, công bố công khai và chỉ nhân rộng trên cơ sở bằng chứng thực tiễn. Đẩy mạnh chiến dịch truyền thông quốc gia về kinh tế bạc, nhân rộng mô hình tốt, cách làm hay, tôn vinh gương người cao tuổi tiêu biểu, phòng ngừa trục lợi, bảo vệ người tiêu dùng cao tuổi. Mở rộng mua sắm công và đặt hàng đổi mới sáng tạo cho sản phẩm - dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ người cao tuổi, như thiết bị trợ năng, robot chăm sóc, hạ tầng giao thông tiếp cận, phần mềm hỗ trợ,... gắn với chuẩn kỹ thuật, an toàn và hiệu quả chi phí.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật và công cụ thực thi gắn với việc điều chỉnh hoạt động kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người cao tuổi, thông qua cơ chế, chính sách của Nhà nước, sự tham gia của thị trường và sự đồng thuận của toàn xã hội - kinh tế bạc; xây dựng bộ chuẩn quốc gia về dịch vụ chăm sóc dài hạn và phục hồi chức năng đối với người cao tuổi; hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về người cao tuổi; tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp công nghệ phát triển sản phẩm, dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ người cao tuổi; thiết lập Quỹ hỗ trợ khởi nghiệp xã hội trong lĩnh vực “kinh tế bạc”, gắn đào tạo - ươm tạo - kết nối thị trường và chuẩn hóa bộ chỉ số đánh giá kinh tế bạc cấp quốc gia - địa phương, công bố định kỳ hằng năm. Lồng ghép bình đẳng giới, bao trùm số và tiếp cận phổ quát trong chính sách liên quan đến người cao tuổi, chú trọng nhóm yếu thế ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau./.
----------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 116
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 45
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 116