Quy hoạch phát triển - Điểm tựa của đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế

PGS.TS Lê Xuân Đình Tổng Biên tập Tạp chí Kinh tế và Dự báo
21:30, ngày 23-04-2012
TCCSĐT - Trong quá trình phát triển, việc hoạch định những chủ trương, chính sách trên cơ sở nắm bắt quy luật vận động tự nhiên, khách quan của nền kinh tế - xã hội có ý nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại. Hai mươi lăm năm đổi mới toàn diện đất nước đã thể hiện rõ điều đó. Xác định điểm tựa của quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế là việc cần thiết hiện nay.

Chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế không phải lần đầu tiên được đặt ra. Trong Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm 1986 - 1990, Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) của Đảng cũng đã đề cập: “Vấn đề lớn nhất hiện nay là sắp xếp, bố trí lại cơ cấu và bước đi của nền kinh tế phù hợp với phương hướng, mục tiêu của những năm trước mắt, phù hợp với khả năng thực tế của nước ta và sự phân công, hợp tác quốc tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định, vững chắc, với nhịp độ nhanh”. Từ đó nền kinh tế chẳng những đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà còn tiếp tục phát triển với tộc độ nhanh, làm thay đổi bộ mặt của đất nước.

Sau một thời gian chống chọi với những tác động tiêu cực do khủng hoảng tài chính, kinh tế 2008 - 2009 và suy thoái toàn cầu, nền kinh tế nước ta đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết vừa có tính tích tụ nhiều năm, chưa chỉnh sửa, vừa có tính bản chất của mô hình tăng trưởng mà chúng ta đã lựa chọn. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã xác định cần phải đổi mới mô hình tăng trưởng, từ mô hình dựa vào thâm dụng vốn, lao động giá rẻ và tài nguyên sang mô hình dựa vào tăng năng suất lao động và giá trị gia tăng. Trong 5 năm tới, cần tập trung vào ba lĩnh vực quan trọng nhất là tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.

Những khiếm khuyết chính của mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

- Sản xuất, gia công để hướng ra xuất khẩu đang quá nặng, làm cho nền kinh tế lệ thuộc sâu vào thế giới, nhưng lại xem nhẹ thị trường trong nước. Lúc sức tiêu thụ bên ngoài giảm mạnh, thì những mặt hàng gia công – xuất khẩu không dựa trên cơ sở nhu cầu thực tế của người tiêu dùng trong nước, nên lúng túng trước việc quay lại với thị trường nội địa. Đó là chưa nói tới đặc thù của nhu cầu thị trường trong nước cũng không hẳn trùng khớp với thị trường xuất khẩu.

- Tăng trưởng nhanh nhưng chủ yếu dựa vào các yếu tố mang tính chất “quảng canh” - theo chiều rộng, không chú ý các yếu tố chiều sâu. Khoảng 54% tăng trưởng là do yếu tố tăng vốn đầu tư. Năng suất của các nhân tố tổng hợp chậm được cải thiện, thậm chí giảm dần. Bởi vậy, càng thúc đẩy tăng trưởng nhanh, quy mô vốn, quy mô sản xuất càng phải tăng mạnh, trong lúc giá trị gia tăng thấp. Những khâu gia công xuất khẩu cũng thường có giá trị gia tăng thấp, cộng với gánh nặng về xã hội, phải ưu tiên cho công nghệ sử dụng nhiều lao động để tạo nhiều việc làm và sự khai thác thái quá đặc điểm lao động rẻ… Rút cục, càng tăng trưởng thì càng cần thu hút thêm nhiều đầu tư, nhưng đầu tư lại kém hiệu quả, hệ số ICOR càng tăng, năng lực cạnh tranh càng ít có điều kiện được cải thiện. Số liệu thống kê cho thấy, ICOR của nền kinh tế nói chung và của các khu vực nói riêng đều có xu hướng tăng trên cả ba khu vực: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Việc đổi mới mô hình tăng trưởng là tối cần thiết, nhưng điều đó chỉ có thể đem lại thành công nếu chúng ta làm rõ được những căn nguyên của sự tồn tại dai dẳng mô hình này, cũng giống như câu chuyện hiệu quả đầu tư thấp cũng là một mệnh đề đã được nhắc đến mấy chục năm nay, chí ít cũng từ Đại hội lần thứ VI của Đảng. Theo chúng tôi, một trong những nguyên nhân cơ bản là:

Chưa phân vai giữa thị trường và nhà nước một cách hợp lý, hợp quy luật phát triển, lúc nghiêng quá sang thị trường, lúc lại chú trọng quản lý theo kiểu kế hoạch tập trung; tình trạng “cái cần buông thì nắm – cái cần nắm thì buông” vẫn tồn tại dai dẳng.

- Cái cần nắm thì buông:

Chỉ trong vòng 10 năm, kể từ khủng hoảng tài chính khu vực 1997, chính sách kích cầu tiêu dùng và đầu tư mới bắt đầu được chú trọng chưa lâu, khi nền kinh tế đi vào thế ổn định, thì thị trường trong nước, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn trong tình trạng phát triển chậm nhất. Những cơn sốt gạo, điều hành xuất khẩu gạo xảy ra năm 2008 đã chứng tỏ, hệ thống phân phối trong nước đang có vấn đề.

Dẫn chứng cho nhận định trên có nhiều, nhưng nổi bật nhất hiện nay, có lẽ là tình trạng phân cấp trong quy hoạch và đầu tư cho các ngành, các địa phương đã quá mạnh, tới mức số dự án do được quyền phân cấp đã xét duyệt lên tới con số mà vốn ngân sách Trung ương không thể đủ để đáp ứng. Người duyệt quy hoạch và dự án không biết được vốn đầu tư từ Trung ương có bao nhiêu, cộng với chủ nghĩa thành tích, hiệu ứng thành tích nhiệm kỳ, lợi ích cục bộ, địa phương, lợi ích nhóm trỗi dậy, không có biện pháp kiểm soát... đã dẫn đến tình trạng đầu tư công dàn trải, kém hiệu quả tới mức nguy kịch cho nền kinh tế.

Thực trạng trên có nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ chúng ta đã quá đề cao sự điều tiết của các quy luật thị trường, có lúc, có nơi, đã muốn trao hết mọi nguồn lực cho thị trường điều tiết.

Trong khi đó, thị trường đã len lỏi vào nhiều “ngõ ngách” của đời sống xã hội. Nhiều lĩnh vực phải quản chặt thì chúng ta lại đang buông. Chẳng hạn, lương thực, thực phẩm bị người sản xuất chạy theo lợi nhuận, bất chấp nguy hại đến sức khỏe người dân, đã sử dụng nhiều loại hóa chất độc hại.

- Cái cần buông (trao cho thị trường) thì nắm:

Nhiều lĩnh vực độc quyền doanh nghiệp hoành hành không kiểm soát được, nhất là một số mặt hàng thiết yếu, như sữa, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, điện, nước… Những cuộc tranh cãi gần đây về thực trạng lời – lỗ trong kinh doanh xăng dầu, lương bình quân và vấn đề nợ, lỗ của ngành điện (EVN). Luật cạnh tranh và chống độc quyền đã được ban hành mấy năm nay, nhưng những chế tài triển khai để Luật đi vào cuộc sống dường như chưa đủ “đô”, hiện tượng độc quyền giá tồn tại khắp nơi. Có người nói, “nếu đầu vào tăng, thì xin tăng giá – việc kinh doanh quá dễ” cũng có cơ sở của nó.

Ngoài ra, do không xác định đúng và đầy đủ nguyên nhân nên nhiều giải pháp tình thế, mang nặng tính hành chính, không cơ bản để chống lạm phát trong nền kinh tế thị trường và hội nhập, đã bị lạm dụng. Có lúc chúng ta coi việc chống lạm phát như mục đích tự thân, chạy theo chủ nghĩa thành tích. Cụ thể là, mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2011 đặt ra là không quá 20%, nhưng đến hết tháng 10, mới chỉ thực hiện được một nửa, khoảng 10%; tình trạng “đốt đuốc” đi tìm doanh nghiệp để cung cấp tín dụng đã xuất hiện tại nhiều ngân hàng thương mại. Hệ lụy của thắt chặt tiền tệ như vậy sẽ còn là một ẩn số, một sự khó lường đối với nền kinh tế đang cần lắm sự phát triển nhanh, bền vững để tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế (một trong bốn nguy cơ lớn mà Đại hội Đảng lần thứ VII lần đầu tiên đã nêu ra).

Thế nhưng, đối với một nền kinh tế đang tăng trưởng, mức lạm phát bao nhiêu thì vừa đã không được quan tâm xác định đúng và kịp thời. Tại Hội thảo giá cả cuối năm 2007, giáo sư Kenichi Ohno và nhóm kinh tế vĩ mô tài chính của Vietnam Dragon Fund Limited (VDF) cho rằng, lạm phát của Việt Nam ở mức thấp hơn hoặc xấp xỉ 10% không phải là thảm họa kinh tế vĩ mô và có thể chấp nhận được nếu nền kinh tế tăng trưởng mạnh.

Các nghiên cứu mới đây cũng cho thấy, thị trường hàng hóa và thị trường vốn tăng thêm sức mạnh cho nhau để duy trì tình trạng quá nóng của nền kinh tế là thực tế đang diễn ra ở Việt Nam và cả Trung Quốc những năm trước khủng hoảng kinh tế thế giới 2008. Nguồn vốn từ nước ngoài được thu hút quá nhiều vào Việt Nam - một quốc gia đang được nhận định là “ngôi sao đang lên”. Nguồn vốn này được tiếp nhận đã tạo ra sự bùng nổ chóng mặt về tiêu dùng, xây dựng, đầu cơ đất đai và chứng khoán. Câu chuyện của thị trường thì nên giải quyết bằng quy luật của thị trường có lẽ là điều cần bàn ở đây.

Cần một quy hoạch tổng thể

Triệt tiêu tình trạng bị động, “phanh gấp” trong điều hành vĩ mô

Từ thực tế trên, có thể rút ra một điều rằng, muốn phát triển thị trường trong nước thì phải chăm lo đến đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân, nhất là gần 2/3 dân số khu vực nông thôn. Thế nhưng, khi kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng tài chính 1997, thì chúng ta lại lao vào sản xuất, gia công để xuất khẩu, nay kim ngạch xuất khẩu đã lên tới tỷ trọng khá cao trong GDP. Đến năm 2011, kim ngạch xuất khẩu của chúng ta đã lên đến con số trên 90% GDP, nhưng khi thị trường thế giới bị suy thoái, hàng loạt hợp đồng bị cắt giảm, khó khăn trong việc ký các hợp đồng xuất khẩu mới, thì câu chuyện tìm lại thị trường trong nước bắt đầu sôi động trở lại. Thị trường trong nước là gì, ai tham gia, hiện trạng nó đang như thế nào... lại được tiếp tục bàn cãi.

Chính phủ cũng đã thừa nhận, công tác dự báo của các bộ, ngành còn yếu kém, không lường trước được làn sóng đầu tư nước ngoài lên tới hơn 20 tỉ USD trong năm 2007, nhưng vốn thực hiện được lại rất khiêm tốn, chỉ 4,5 tỉ USD. Mỗi năm, Việt Nam nhận được một lượng vốn từ nước ngoài khá lớn, khoảng 15 tỉ USD, tương đương 25% GDP của năm 2006. Số lượng vốn lớn như vậy là dấu hiệu mang tính vĩ mô của cuộc khủng hoảng cán cân thương mại trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.

Rõ ràng, lạm phát ở Việt Nam có thể tìm thấy nguyên nhân rất lớn từ công tác điều hành vĩ mô, do không xác định đúng và đầy đủ nguyên nhân nên Việt Nam đã lạm dụng nhiều giải pháp tình thế, không cơ bản để chống lạm phát. Giữa năm 2007, Bộ Tài chính đã chi ra khoảng 1.000 tỉ đồng ngân sách để giảm thuế đối với hàng trăm mặt hàng, nhưng lạm phát vẫn xẩy ra.

Như vậy, từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế - tài chính đất nước đầy sôi động với nhiều nỗi lo toan và chờ đợi để các chính sách chống lạm phát và tăng trưởng kinh tế đi vào thể ổn định và tiếp tục phát triển.

Quy hoạch phát triển phải đóng vai trò quyết định, định hướng trong quá trình điều hành đất nước nói chung, phát triển kinh tế nói riêng, nhất là trong đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.

Những cách làm, những hiện tượng nêu trên có một nguyên nhân, rất cơ bản, đó là chúng ta thiếu một điểm tựa, thiếu một hệ tiêu chuẩn rõ ràng, cho dù chúng ta có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, nhưng quy hoạch tổng thể phát triển đất nước lại chưa được hoạch định và thực thi một cách thống nhất. Tầm nhìn và tư duy của người lập quy hoạch, chưa xác định rõ cái nào trước cái nào sau (chẳng hạn quy hoạch đất đai và không gian phải có trước). Các tính toán cân đối tổng thể còn đơn giản, chắp vá, thiếu những thông tin chính xác cần thiết. Các tính toán cân đối nguồn lực cho phát triển các ngành nhìn chung còn sơ sài, chưa đặt ngành, lĩnh vực quy hoạch trong tổng thể toàn bộ nền kinh tế, không làm rõ được khả năng huy động nguồn lực và lộ trình đầu tư phát triển.

Một nền kinh tế trong xu thế hội nhập có nhiều điểm phải hòa vào luật chơi chung của thế giới, đó là điều hoàn toàn đúng hiện nay. Nhưng chừng nào biên giới lãnh thổ, chủ quyền quốc gia còn, thì nền kinh tế quốc dân phải là một thực thể thống nhất độc lập, tự chủ tham gia vào kinh tế thế giới, chứ không phải “hòa tan vào thế giới”.

Thực tế càng chứng tỏ, nhà nước luôn là trụ cột để một quốc gia không những trở thành một thực thể độc lập, tự chủ, có chủ quyền, mà còn phải biết cách bảo vệ tốt nhất lợi ích của mình trong cuộc chơi chung toàn cầu, lợi ích đó bao hàm một tổng thể các lợi ích con của tất cả các chủ thể tham gia nền kinh tế. Muốn có một quốc gia mạnh, nhà nước phải đóng vai đúng là người tạo luật chơi để các chủ thể trong đó phát huy hết mọi tiềm năng, lợi thế cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững… bằng luật, bằng chuẩn mực chung. Ngoài ra, nhà nước lại cũng có vai trò là một tổng số các chủ thể tham gia kinh doanh, bởi vậy làm sao để sự tham gia đó không làm méo mó luật chơi chung, theo hướng độc quyền, thao túng chính phủ… bằng lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ hay cả hội chứng nhiệm kỳ.

Các địa phương với vai trò là tập hợp con trong tập hợp mẹ (nhà nước tạo luật chơi), các địa phương thực hiện và giám sát việc tuân thủ pháp luật theo không gian, địa giới hành chính, nhưng làm sao để không rơi vào địa phương chủ nghĩa, “rừng nào cọp nấy”, tới mức gây ảnh hưởng, thậm chí thiệt hại đến lợi ích đại cục quốc gia.

Trên thực tế, các địa phương lại cũng tham gia kinh doanh, thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Chính vì sự nhập nhằng giữa hai chức năng này mà việc chạy theo thành tích tăng trưởng GDP, thu hút vốn đầu tư, tăng các khu công nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng đất…là để tạo nguồn thu ngân sách và tháo gỡ sức ép của việc thiếu hụt các khoản thu ở các địa phương./.