TCCS - Bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những văn kiện chính trị, văn bản lịch sử quan trọng của đất nước. Bên cạnh giá trị tư tưởng, chính trị tiến bộ, sâu sắc, phản ánh ý chí, quyết tâm của toàn dân tộc trong thời chiến, đồng thời truyền cảm hứng, dẫn dắt, soi đường, định hướng cho một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước trong thời bình, bản Di chúc còn thấm đẫm giá trị nhân văn phổ quát, thời đại của một nhân cách lớn, như đúc kết của nhà lãnh đạo vĩ đại cách mạng Cuba Fidel Castro: “Đồng chí Hồ Chí Minh thuộc về một lớp người đặc biệt mà cái chết lại gieo mầm cho sự sống, đời đời bất diệt”(1).

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu xem tài liệu, hiện vật được trưng bày tại di tích Nhà sàn Bác Hồ_Ảnh: TTXVN

Tầm vóc phổ quát, giá trị thời đại của bản Di chúc vĩ đại

Bản Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh có dung lượng chỉ hơn 1.000 từ, được soạn thảo trong vòng 4 năm (giai đoạn 1965 - 1969) với nhiều lần bổ sung, chỉnh sửa, đặc biệt trong hai năm 1968 và 1969. Những lần chỉnh sửa tỉ mỉ, kỹ lưỡng, chu đáo đã thể hiện tầm vóc, tâm huyết của Người dành cho Đảng, cho nhân dân trong cuộc kháng chiến và niềm tin mạnh mẽ vào tương lai tươi đẹp của đất nước. Bản Di chúc được viết trong những năm tháng ác liệt và thử thách nhất của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước, khi kẻ thù bắt đầu cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc, chính thức đưa quân xâm lược vào miền Nam Việt Nam, biến Việt Nam thành một trong những “điểm nóng” nhất trong xung đột toàn cầu thời kỳ Chiến tranh lạnh. Đứng trước thử thách đó, bản Di chúc đã phản ánh tâm thế lạc quan, khí phách, tinh thần cách mạng kiên cường của một “trái tim vĩ đại”, một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng”; đồng thời thể hiện những tâm sự cá nhân cao cả nhưng giản dị, chân thành và nhân văn của Người cùng ý chí, nguyện vọng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ của cả dân tộc.

Nội dung bản Di chúc là kết tinh của tinh hoa trí tuệ, tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh - người cộng sản chân chính, suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc và hòa bình của nhân loại. Ngày 10-5-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm một trang viết tay(2) chứa đựng nội dung phong phú và sâu sắc, là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, trách nhiệm của Người đối với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng Việt Nam cũng như phong trào cách mạng thế giới, rằng khi “thắng lợi hoàn toàn”, Người dự định sẽ “đi khắp hai miền Nam - Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng… thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta(3). “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(4). Điều này phản ánh sâu sắc tư tưởng giải phóng con người và tình yêu lớn lao của Người dành cho dân tộc.

Có thể khẳng định, bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại, soi rọi, dẫn dắt cho cuộc đấu tranh chống quân xâm lược, thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam, truyền cảm hứng cho nhân dân ta tiếp tục sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc vĩ đại; đồng thời xác lập những thông điệp nhân văn, tiến bộ và ý tưởng vượt thời đại tới nhân dân thế giới. Qua đó, chúng ta càng hiểu sâu sắc về người cách mạng chân chính, vị lãnh tụ đáng kính của nhân dân Việt Nam mà sau hơn năm thập kỷ, vẫn là ngọn đuốc soi đường, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam đi tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(5), “Bản Di chúc thiêng liêng, một văn kiện lịch sử cực kỳ quan trọng, kết tinh tư tưởng, văn hoá, trí tuệ, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một bậc vĩ nhân”(6). Với ‎ý nghĩa đó, bản Di chúc là một văn kiện lịch sử đặc biệt, di sản vô giá, đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là “Bảo vật quốc gia” vào tháng 10-2012.

Những giá trị lịch sử, tinh thần to lớn, vượt thời đại của bản Di chúc

Thứ nhất, bản Di chúc là kết tinh của trí tuệ, sản phẩm tổng kết lý luận và thực tiễn từ sự nghiệp của Người “kiến tạo vĩ đại” cách mạng Việt Nam, một trong những chiến sĩ cách mạng quốc tế tiêu biểu, đại diện cho các dân tộc bị áp bức ở phương Đông thế kỷ XX. Đây là văn bản phản ánh những vấn đề chính trị trung tâm của cuộc kháng chiến, Đảng cầm quyền, sự gắn bó giữa quần chúng với cách mạng, tương lai và mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng và nhân dân tiến bộ thế giới,… Theo đà phát triển của cuộc kháng chiến, những thay đổi, bổ sung về nội dung của bản Di chúc cũng diễn ra, cho thấy sự thay đổi linh hoạt từng bối cảnh, thể hiện niềm tin và ý chí quyết tâm của nhà lãnh đạo cũng như khả năng dự báo thiên tài của Người. Năm 1965 Người viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người”(7), đến năm 1968, Người đã hình dung ra thắng lợi của cuộc kháng chiến, phác thảo nội dung việc xây dựng đất nước sau khi thắng lợi, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng lại thành phố, làng mạc. Theo đó, Người chỉ rõ “công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man”(8)

Bản Di chúc cũng có thể được coi như một “cương lĩnh” chính trị có tính tổng kết thực tiễn, phản ánh khát vọng và tâm huyết của một nhà chính trị, vị lãnh tụ mà phần lớn các nội dung đề cập vẫn đang còn mang tính thời sự. Trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(9). Cùng với đó, tâm huyết của Người về hình mẫu của một nước Việt Nam tươi đẹp trong tương lai phải hội tụ đủ các yếu tố là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Thứ hai, từ góc độ cá nhân, những dòng di nguyện phản ánh giá trị và nội hàm cao đẹp của tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa thấm nhuần tinh thần nhân văn, tinh thần yêu nước, truyền thống, đạo lý của người Việt, đồng thời mang các giá trị tốt đẹp của nền văn hóa phương Đông và phương Tây, sự tôn trọng và chăm lo cho con người. Có lẽ ít có bản di chúc chính trị nào lại viết một cách chi tiết và dành nhiều nội dung chuyển tải vấn đề các vấn đề cụ thể, như chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố và làng mạc, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng, chuẩn bị thống nhất đất nước, công tác thương binh, liệt sĩ, chăm lo cho phụ nữ(10),... Từ góc độ dân tộc, di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối với nhân dân Việt Nam, là kim chỉ nam soi đường cho Đảng cầm quyền dẫn dắt cuộc kháng chiến chống Mỹ nói riêng và phong trào cách mạng Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng. Bên cạnh đó, nhiều giá trị nhân văn mang tính phổ quát, thời đại được người đề cập, như quan tâm, chăm lo, phát triển của con người, sự cảm kích và tri ân giúp đỡ của bạn bè năm châu, và “chẳng những Việt Nam phải đấu tranh giành lấy độc lập dân tộc cho chính mình, mà còn phải gánh vác trách nhiệm một phần trong sự nghiệp mưu cầu hòa bình cho toàn thế giới”(11). Điều này xuất phát từ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của văn hoá Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần quốc tế vô sản cao cả của một nhà cách mạng có tầm ảnh hưởng thế giới.

Thứ ba, tác phẩm Di chúc thể hiện nhân cách, phẩm giá, trí tuệ cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh ít đề cập tới cuộc đời riêng tư. Vì thế, bản Di chúc chính là một trong những văn kiện giúp hiểu rõ hơn về tâm tư, tình cảm, phẩm chất, trí tuệ, tâm nguyện của một cá nhân được lịch sử lựa chọn, dẫn dắt, lãnh đạo một dân tộc đi từ đêm đen nô lệ tới ánh sáng độc lập tự do và phát triển thịnh vượng. Như đã đề cập, hiếm có bản di chúc nào sử dụng và trích dẫn cả thơ ca, dẫn ví dụ minh hoạ từ cổ nhân, dẫn ví dụ các nhà thơ, tham chiếu điển tích, điển cố văn chương, nghệ thuật. Điều này cho thấy tầm vóc, tâm thế của một trái tim chân thành, lớn lao, một lãnh tụ nhưng vô cùng giản dị, gần gũi, kiên định và tâm thế sống của một bậc vĩ nhân(12); phản ánh tinh thần quyết tâm, ý chí quật cường và thái độ lạc quan, ung dung tự tại. Tất cả đều giúp chúng ta hiểu thêm về tư tưởng, đạo đức, phong cách, con người Hồ Chí Minh; đồng thời là trí tuệ, truyền thống nhân nghĩa, đạo lý Việt Nam.

Mặt khác, sự bao quát của bản Di chúc đề cập đến nhiều khía cạnh, từ các vấn đề quốc gia đại sự, vai trò của Đảng cầm quyền, tới mong ước giản dị mỗi người dân viếng thăm trồng một cây xanh ở nơi mình an nghỉ,… cho thấy Người là một nhà lãnh đạo thực tiễn và nhân văn, gắn vận mệnh của bản thân với cuộc cách mạng, với dân tộc. Thông qua bản Di chúc, đồng bào, đồng chí cả nước và bạn bè quốc tế thêm một lần nữa thấu cảm và thấu hiểu về Bác… Bản Di chúc thể hiện tư tưởng mang tầm thời đại, trí tuệ, đạo đức sáng ngời; đồng thời cho thấy phong cách, lối sống giản dị, trọn vẹn nghĩa tình của một vị lãnh tụ, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Bản Di chúc kế thừa truyền thống nhân bản, nhân đạo của dân tộc Việt Nam, kết tinh qua hàng nghìn năm lịch sử, hội tụ ở những anh hùng, vĩ nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,…

Thứ tư, bản Di chúc là niềm cảm hứng cổ vũ, tạo sức mạnh cho cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam; có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Đây là văn kiện khích lệ tinh thần, ý chí thống nhất của nhân dân hai miền Nam - Bắc trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước ở năm tháng cam go nhất. Từ năm 1965, đế quốc Mỹ và đồng minh liên tục leo thang can dự vào Việt Nam và Đông Dương; tiến hành cuộc chiến bí mật tại Lào, ném bom với số lượng lớn chưa từng có(13). Trong bối cảnh đó, bản Di chúc là lời hiệu triệu, lời cổ vũ nhân dân hai miền: Miền Bắc ra sức sản xuất, trở thành hậu phương lớn cho miền Nam đánh Mỹ. Ý nghĩa cổ vũ và tạo sức mạnh của Di chúc đã được phản ánh rõ nét, lan toả, truyền cảm hứng, truyền sức mạnh cho hàng triệu người Việt Nam trên tuyến đầu đánh Mỹ, hàng triệu người Việt Nam nơi hậu phương, rằng “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”. Đây là lời hiệu triệu thiêng liêng, phát huy tối đa sức mạnh của một dân tộc quật cường trong những giờ phút nguy nan và hiểm nghèo nhất để vươn tới thắng lợi cuối cùng.

Thứ năm, dẫn dắt, soi đường cho dân tộc Việt Nam ngày càng phát triển bền vững trong thời đại mới. Bản Di chúc có ý nghĩa lớn lao đối với công cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam. Đây là một bản kế hoạch “rõ ràng, sẵn sàng và chu đáo(14) giúp Việt Nam từng bước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác ở thế kỷ XX cũng như trong giai đoạn phát triển đất nước hiện tại. Với tầm nhìn sâu rộng, vượt tầm thời đại, bản Di chúc không chỉ đề cập tới chiến thắng quân sự của nhân dân ta trước kẻ thù xâm lược mà còn các kế hoạch thời hậu chiến, chính sách chăm lo cho người dân, các bài học lý luận và thực tiễn rút ra từ quá trình lãnh đạo cách mạng, hoàn thiện Đảng cầm quyền, con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc gắn kết cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, về kế hoạch chăm lo cho con người, đặc biệt là sau khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi.

Bản Di chúc - minh chứng trí tuệ, ý chí của một người cộng sản chân chính, là kim chỉ nam để các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay

Những tổng kết lý luận, thực tiễn đầy khoa học, tâm huyết được đúc kết bởi trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phù hợp trong bối cảnh khó khăn, gian nan của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, mà đã vượt khỏi thử thách của không gian, thời gian, trở thành các giá trị trường tồn, phổ quát, phản ánh xu thế tất yếu của thời đại mới. Đặc biệt trong giai đoạn phát triển mới, với  thế  và  lực  sau  40  năm  cải cách, đất  nước ta bước  vào  kỷ  nguyên  vươn  mình  của  dân  tộc, “kỷ nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành  công  nước  Việt  Nam  dân  giàu,  nước mạnh,  dân  chủ,  công  bằng,  văn  minh… thực  hiện  thành  công  mong  ước  của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc, đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu”(15), giá trị của bản Di chúc càng được phát huy mạnh mẽ.

Các đại biểu là thanh niên tiêu biểu trên các lĩnh vực trong và ngoài nước thể hiện quyết tâm tại phiên khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ IX với khẩu hiệu hành động của đại hội là: "Thanh niên Việt Nam yêu nước - khát vọng - đoàn kết - tiên phong - sáng tạo - tự tin bước vào kỷ nguyên mới" _Nguồn: thanhnien.vn

Một trong những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tập trung vào người lãnh đạo và lực lượng cầm quyền, Đảng cầm quyền phải hội đủ các phẩm chất và sự vận hành một Đảng cách mạng chân chính. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Hơn lúc nào hết, Đảng ta phải thực sự là đạo đức, là văn minh để đưa dân tộc vượt qua mọi biến động, khó khăn, đi đến mục tiêu mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn; toàn Đảng phải một lòng trên dưới cùng đổi mới mạnh mẽ phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, xứng đáng là lực lượng ngày càng “tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(16). Người đã dành một thời lượng đáng kể đề cập đến truyền thống yêu nước của nhân dân ta, sức mạnh quật cường và đóng góp lớn lao của nhân dân đối với cuộc kháng chiến, rằng “Được lòng dân thì việc gì cũng làm được/ Trái ý dân thì chạy ngược chạy xuôi(17); do đó, phải đề cao vai trò của trí tuệ, sáng kiến của quần chúng nhân dân, bởi “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng.... Muốn hiểu biết, học hỏi dân chúng, thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn, phải chịu khó”(18).

Bản Di chúc là văn kiện lịch sử đánh dấu một thời đại mới trong tiến trình phát triển vững mạnh của dân tộc Việt Nam. Thời đại đó, một dân tộc bị cho là “nhược tiểu”, “thấp kém”,... gần 100 năm sống dưới ách đô hộ của thực dân phương Tây, đã tự mình giải đáp câu hỏi về độc lập tự do và dân chủ, tiến hành đấu tranh không ngừng nghỉ, làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập và một nhà nước hiện đại. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhưng phải đối đầu với hai cường quốc hàng đầu là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trong cuộc chiến kéo dài ba thập kỷ; trở thành điểm nóng, nơi đối đầu giữa các xu thế cách mạng và chính trị của thế kỷ XX. Tuy nhiên, Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Người đã dẫn dắt toàn dân tộc đứng lên chiến đấu, giành thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chính vì thế, câu chuyện Việt Nam không chỉ phản ánh sức mạnh, khát vọng, hoài bão mới của dân tộc độc lập mà còn là một mẫu hình của các nước thuộc địa và phụ thuộc trong nỗ lực tự giải phóng và tìm một vị thế mới trên thế giới. Các giá trị đó đã được phản ánh xuyên xuốt trong bản Di chúc, thể hiện gần như toàn bộ quá trình lịch sử sôi động, hào hùng của Việt Nam ở thế kỷ XX.

Bản Di chúc cho chúng ta thấy sức mạnh mới của dân tộc Việt Nam, từ sự dẫn dắt của Đảng cầm quyền, sự trỗi dậy với các phẩm chất mới của nhân dân, sự gắn kết của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Các ý tưởng gửi gắm từ bản Di chúc cũng là những kế hoạch phác thảo cho một thời đại mới, một nước Việt Nam tốt đẹp - chính là hình mẫu mà Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam hôm nay đang quyết tâm dựng xây. Thực tiễn cho thấy tính đúng đắn, tầm nhìn và nhãn quan chính trị vượt thời đại của Hồ Chí Minh. Người cho rằng, “tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, tức là nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(19). Trong đó, nội dung xây dựng xã hội mới phải hướng tới các mục đích là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; là tất cả mọi người, tất cả đồng bào các dân tộc ngày càng ấm no; con cháu “chúng ta” ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, những phong, tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ,...  Người cũng phân tích, chủ nghĩa xã hội là một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, là nơi sẽ “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng(20); nhưng không phải cứ “ngồi chờ” là sẽ có chủ nghĩa xã hội, trái lại, “cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(21). Đặc biệt, trên lĩnh vực kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề then chốt, xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công, nông nghiệp hiện đại, khoa học, kỹ thuật tiên tiến, bởi “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”(22). Tầm nhìn dài hạn về mô hình phát triển đất nước của bản Di chúc có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh vươn mình mạnh mẽ của dân tộc ta trong giai đoạn hiện nay. Điều này không chỉ phản ánh sự nhất quán trong tư tưởng của Đảng qua các giai đoạn, mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo xuất sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những bước ngoặt của lịch sử dân tộc.

Với tất cả giá trị lịch sử, tư tưởng và ý nghĩa thời đại, bản Di chúc xứng đáng là một trong những văn kiện chính trị quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam thế kỷ XX. Là “Di chúc” nhưng không hề có một dòng về “tài sản” cá nhân, thay vào đó là tinh thần phụng sự đến hơi thở cuối cùng dành cho đất nước, dân tộc, nhân dân và các giá trị đạo đức, nhân văn, dân chủ, tiến bộ của nhân loại. Đây là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường cho mỗi bước đi của toàn Đảng, toàn quân và dân tộc Việt Nam, quá trình định hình chính sách, xây dựng hệ giá trị, nền tảng của các mục tiêu, chiến lược phát triển, hội nhập quốc tế của đất nước đến bến bờ phồn vinh, văn minh, hạnh phúc./.

--------------------------

(1) Xem: Hoàng Chí Bảo: “Di sản vĩ đại, thiêng liêng Bác để lại cho Đảng, cho dân tộc và nhân loại”, Báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 1-9-2019, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/di-san-vi-dai-thieng-lieng-bac-de-lai-cho-dang-cho-dan-toc-va-nhan-loai-590083
(2) Xem: Vũ Kỳ: Bác Hồ viết Di chúc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 621
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 187
(5) Xem: Đoàn Minh Huấn: “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư tưởng động viên toàn dân, dựa vào lực lượng của Nhân dân để đổi mới, xây dựng đất nước”, in trong cuốn: Di chúc Bác Hồ mãi là ánh sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam (nhiều tác giả), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 41 - 57
(6) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi sáng con đường đi tới tương lai của dân tộc Việt Nam”, in trong cuốn: Di Chúc của Bác Hồ mãi là ánh sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam (nhiều tác giả), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 10
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 612
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622
(10) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616 - 617
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 643
(12) Xem: Nguyễn Ngọc Hà - Hà Mỹ Hạnh: “Di chúc - Sự thể hiện nhân cách suốt đời vì nước, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, in trong cuốn: Di chúc Bác Hồ mãi là ánh sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam (nhiều tác giả), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 66 - 76
(13) Xem: Kenneth Conboy, with James Morrison: “Shadow War: The CIA's Secret War in Laos” (Tạm dịch: Cuộc chiến bóng tối: Cuộc chiến bí mật của CIA ở Lào), Boulder: Paladin Press, 1995
(14) Bùi Đình Phong: Xây dựng đất nước phồn vinh theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr. 30
(15) Tô Lâm: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục đổi mới, chủ động, sáng tạo, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, bản lĩnh, sức mạnh con người Việt Nam, tự chủ, tự hào, vững tin bước vào kỷ nguyên mới”, Tạp chí Cộng sản, số tháng 1.048 (tháng 10-2024), tr. 5
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 301
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 163
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 333
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 251
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. XII
(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 91
(22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 445