Giải bài toán nhân lực thời chiến - một trí tuệ tuyệt vời của Đảng
Từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968 là giai đoạn thứ 3 cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Ở giai đoạn này, đế quốc Mỹ từng thi hành một chiến lược hết sức thâm độc, chiến lược "Chiến tranh cục bộ". Quân viễn chinh Mỹ đã trực tiếp tham chiến trên quy mô lớn ở miền Nam; ở miền Bắc chúng đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân, hòng đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá. Cả nước ta phải trực tiếp đương đầu với đế quốc Mỹ.
Ngoài việc tung vào cuộc chiến một khối lượng sắt thép khổng lồ, sử dụng các loại vũ khí hiện đại nhất (trừ bom nguyên tử), lợi dụng mọi thành tựu khoa học - kỹ thuật mới nhất và thi thố mọi chiến lược, chiến thuật quân sự, chính trị, ngoại giao, "xuất tướng" đến cạn kiệt các "chiến lược gia" hảo hán để đấu trí với chúng ta, đế quốc Mỹ còn huy động một khối lượng nhân lực cực lớn cho cuộc chiến tranh xâm lược. Đó là 70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân, 60% không quân, 6,5 triệu lượt thanh niên Mỹ đã trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam và 22.000 doanh nghiệp Mỹ trực tiếp phục vụ cuộc chiến tranh này. Đến tháng 12 năm 1967, quân Mỹ trên các chiến trường miền Nam đã lên tới 480.000 tên (9 sư đoàn và 3 lữ đoàn); quân ngụy gồm 550.000 tên (11 sư đoàn và 11 trung đoàn)(1)...
Vào thời gian đó, dân số cả 2 miền Nam và Bắc Việt Nam chỉ bằng 1/7 dân số nước Mỹ. Nước Mỹ có gần 110 triệu lao động, còn miền Bắc Việt Nam chỉ có chưa đầy 8 triệu người trong độ tuổi lao động, trong đó nam thanh niên ở độ tuổi tòng quân (18 - 25 tuổi) chỉ có 65 vạn người. Về vật chất, giá trị tổng sản phẩm hàng năm (trong những năm đó) của miền Bắc chỉ bằng 1/1000 của nước Mỹ... Lực lượng vật chất thì hữu hạn nhưng sức mạnh tinh thần, ý chí sắt đá, quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam thì không gì so sánh nổi.
Trong hàng ngàn bài toán phải giải, có bài toán thuộc "hàm nhiều biến", đó là bài toán nhân lực phục vụ trọn vẹn cả 2 nhiệm vụ chiến lược, trong đó nhân lực cho chiến đấu và phục vụ chiến đấu là yêu cầu hết sức cấp bách. Với chưa đầy 8 triệu lao động (trong đó gần 60% là lao động nữ) chúng ta phải cân đối cho tất cả các nhu cầu, mà nhu cầu nào cũng bức xúc.
Đứng trước tình huống căng thẳng đó, Trung ương Đảng đã chỉ đạo việc "giải bài toán" này. Với tất cả các điều kiện "cần và đủ" do các cơ quan tham mưu đệ trình, Bộ Chính trị đã nghiên cứu và sau 3 tháng đã ban hành Nghị quyết số 161/NQ/TƯ ngày 30 tháng 6 năm 1967 về công tác lao động.
Nội dung cơ bản của Nghị quyết là đề cao kỷ luật lao động thời chiến, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả cao nhất sức lao động xã hội. Nghị quyết chỉ rõ "Trong xã hội ta, mỗi giờ làm việc, mỗi ngày lao động không chỉ có giá trị làm ra của cải cho xã hội, mà còn là sự cống hiến năng lực của mọi người quan tâm chống Mỹ cứu nước. Lãng phí lao động không chỉ làm lãng phí của cải vật chất của xã hội, mà còn xâm phạm đến tinh thần và nghĩa vụ thiêng liêng của mọi người đối với Tổ quốc... Tiết kiệm lao động (lao động sống và lao động quá khứ)... chẳng những là một nguyên tắc, một kỷ luật lao động mà còn là một trong những tiêu chuẩn đạo đức của người lao động dưới chế độ xã hội chủ nghĩa."(2)
Vận dụng nhuần nhuyễn các nguyên lý tổ chức lao động khoa học và phân tích đầy đủ các căn cứ thực tiễn sản xuất và chiến đấu, tiền tuyến và hậu phương, tương quan nhân lực giữa địch và ta (trong đó đánh giá chính xác, đúng đắn sức mạnh tinh thần, lòng yêu nước cháy bỏng của nhân dân ta)..., Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã giải đáp bài toán lao động thời chiến bằng sáu điểm cơ bản, trong đó, điểm đầu tiên là nhiệm vụ tổng quát, năm điểm tiếp theo là những nhiệm vụ cụ thể:
1. Vừa phải bảo đảm lực lượng lao động cho sản xuất, vừa ra sức thỏa mãn nhu cầu bổ sung con số cho các lực lượng vũ trang trong mọi tình huống với tinh thần "tiền tuyến gọi, hậu phương đáp lời" không phút giây chậm trễ.
2. Phải bảo đảm đầy đủ sức lao động cho sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Phải thấu suốt vị trí rất quan trọng của nông nghiệp thời chiến, vừa bảo đảm cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân và dân ta ăn no, đánh thắng, vừa là nguồn nhân lực chủ yếu để bảo đảm lao động cho chiến đấu và bổ sung cho các ngành sản xuất khác.
3. Phải cung ứng nhân lực đầy đủ cho nhu cầu bảo đảm giao thông vận tải thông suốt trong mọi tình huống với tinh thần "địch đánh, ta cứ đi".
4. Đối với các tỉnh khu IV cũ và các vùng xung yếu khác (vùng ven biển, các trục giao thông quan trọng, các địa bàn địch thường xuyên đánh phá, hủy diệt...) phải bảo đảm đủ lao động dự trữ để sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
5. Huy động và sử dụng với hiệu quả cao sức lao động của mọi lớp người, nhất là lực lượng lao động trai trẻ; sử dụng hợp lý lực lượng lao động đông đảo phụ nữ tham gia sản xuất và chiến đấu.
6. Phải triệt để tiết kiệm sức lao động, lấy việc tăng năng suất lao động, hiệu suất công tác làm biện pháp hàng đầu để hoàn thành tốt nhiệm vụ, khắc phục tối đa tình trạng lãng phí sức lao động và thời gian lao động (đây vừa là nhiệm vụ, vừa là phương châm, vừa là nguyên tắc đồng thời vừa là thước đo hiệu quả sử dụng sức lao động).
Sáu nội dung về đường lối công tác lao động thời chiến nói trên được Chính phủ cụ thể hóa bằng các con số định lượng trong bảng cân đối lao động xã hội rất khoa học theo nhiều phương án linh hoạt ứng với mỗi tình huống có thể xảy ra trong quá trình diễn biến của chiến tranh.
Có thể nói đây là một trong những Nghị quyết mà hiệu lực, hiệu quả được phát huy nhanh chóng, tức thời. Vào lúc này, mọi người lao động trên đất Bắc ngoài nhiệm vụ sản xuất, công tác, học tập còn "kiêm" thêm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu (tay cày, tay súng; tay búa, tay súng; thanh niên 3 sẵn sàng; phụ nữ 3 đảm đang...); một lực lượng trai tráng trẻ khỏe với số lượng khá lớn được ưu tiên cho các lực lượng vũ trang. Nếu từ năm 1965 đến đầu năm 1967, miền Bắc mới đưa vào miền Nam được 101.590 người (chủ yếu là bộ đội) thì chỉ riêng năm 1968 và cũng chỉ riêng bộ đội đã đưa vào được 140.000 người. Lực lượng chủ lực miền Bắc đưa vào đã cùng với quân dân miền Nam làm nên một Mậu Thân tổng tiến công và nổi dậy vang dội. Ta đồng loạt tiến công địch ở 4 thành phố lớn, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương cả Mỹ lẫn ngụy, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn tên địch (có 4 vạn tên Mỹ), phá 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xã với hơn 1 triệu dân...
Ở miền Bắc, tính đến tháng 11 năm 1968, quân và dân ta đã bắn rơi 3.243 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 134 lần chiếc tàu chiến Mỹ. Trong sản xuất nông nghiệp, nhờ tổ chức sử dụng lao động hợp lí mà trong các năm 1967-1968 phần lớn các huyện đồng bằng, các vùng trọng điểm lúa của miền Bắc đã đạt được các mục tiêu 1 lao động đảm nhiệm 1 héc-ta gieo trồng, đạt năng suất 5 tấn trên 1 héc-ta, bình quân 1 héc-ta nuôi được 2 con lợn (cũng cần phải nói thêm rằng, lao động nữ miền Bắc đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu nói trên. Ở nhiều đội sản xuất trong các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bằng Bắc bộ và khu IV cũ hầu như không còn một lao động nam thanh niên nào; phụ nữ vừa sản xuất, vừa chiến đấu rất ngoan cường. Các xã, các hợp tác xã đã thực hiện nghiêm túc khẩu hiệu "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"...).
Cũng nhờ sử dụng tiết kiệm lao động ở hậu phương, nhờ tổ chức sử dụng lao động hợp lý, chúng ta đã huy động được hàng vạn thanh niên xung phong, hàng chục vạn dân công hỏa tuyến và hàng triệu ngày công lao động tại chỗ để xây dựng và phát triển, đảm bảo thông suốt tuyến giao thông vận tải Trường Sơn với tinh thần "xe chưa qua, nhà không tiếc". Toàn bộ chiều dài tuyến đường Trường Sơn lên đến 20 ngàn cây số (chủ yếu được xây dựng, phát triển trước và sau Mậu Thân). Vì vậy, việc chuyển quân và vận chuyển hàng hóa từ Bắc vào Nam được bảo đảm theo đúng yêu cầu (lại cũng phải nói thêm rằng, đây là một chiến tích vô cùng to lớn, nhưng cũng là một nhiệm vụ cực kỳ nặng nề, gian khổ vì cứ vận chuyển được 1000 tấn hàng vào đến chiến trường thì 21 người hy sinh, 57 người bị thương và 25 xe ô-tô bị phá hủy)...
Từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, lao động thủ công là chủ yếu nhưng cùng một thời gian Đảng ta đã lãnh đạo thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược là nhờ biết tổ chức lao động khoa học, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lao động, nâng cao năng suất lao động và hiệu suất công tác, trong đó nhân lực cho chiến đấu, phục vụ chiến đấu được bảo đảm nghiêm ngặt.
Thắng lợi của Mậu Thân 1968 là cơ sở, là nền tảng, là bài học cho những thắng lợi nối tiếp tới 30-4-1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chỉ với một lực lượng lao động không lớn so với đối phương mà làm nên đại thắng đó chính là bài học "lấy ít thắng nhiều", là bài học sử dụng con người rất trí tuệ của Đảng ta...
(1) Các số liệu trong bài viết đều lấy từ " Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi và bài học", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28, tr 346, 358, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003.
Điều gì đạt được tại Đa-vốt 2008?  (29/01/2008)
Điều gì đạt được tại Đa-vốt 2008?  (29/01/2008)
Thu hút trên 1,7 tỉ USD vốn FDI trong tháng đầu năm  (29/01/2008)
JETRO: Kinh tế Việt Nam tăng trưởng 8,7% năm 2008  (29/01/2008)
Thái Lan: Chủ tịch đảng PPP Samak Sundaravej được bầu làm Thủ tướng  (29/01/2008)
Nguyễn Đức Cảnh - một nhà báo lớn của Đảng  (29/01/2008)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm