TCCSĐT- Ngày 30-11, Văn phòng Chính phủ phối hợp với Viện Quản lý kinh tế Trung ương và Học viện Cạnh tranh châu Á (Xin-ga-po) tổ chức Hội thảo Công bố Báo cáo Năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Báo cáo do nhóm nghiên cứu của Viện Quản lý kinh tế Trung ương (Việt Nam), Học viện Cạnh tranh châu Á với sự chỉ đạo về chuyên môn của giáo sư Mai-cơn E. Poóc-tơ (Michael E.Porter) của Đại học Ha-vớt – chuyên gia hàng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh, thực hiện.

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành, doanh nghiệp, khách quốc tế, các cơ quan thông tấn báo chí đã tham dự Hội thảo.

Báo cáo Năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010 là Báo cáo quốc gia đầu tiên được xây dựng nhằm đánh giá toàn diện và sâu sắc năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên các khía cạnh, đồng thời, đề xuất một chương trình hành động tổng thể, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, duy trì đà tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.

Thay mặt nhóm nghiên cứu, giáo sư Mai-cơn E. Poóc-tơ đã trình bày tóm tắt Báo cáo Năng lực cạnh tranh của Việt Nam với các nội dung lớn sau:

- Mô hình tăng trưởng của Việt Nam hiện nay: những kết quả và hạn chế

Trong hai thập niên qua Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng ấn tượng, tỷ lệ nghèo đã giảm đi trên diện rộng, nền kinh tế phục hồi nhanh sau cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, trong mô hình tăng trưởng hiện nay đã bộc lộ một số hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển bền vững trong giai đoạn tới.

Mô hình phát triển hiện nay mang đậm nét “cổ điển”: chuyển dịch cơ cấu được kích hoạt do sự mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới; các nhà đầu tư nước ngoài kết hợp vốn của mình với lao động rẻ của Việt Nam và đầu vào nhập khẩu để sản xuất phục vụ thị trường ở trong và ngoài nước. Với mô hình này, mặc dù xuất khẩu của khu vực chế tác có tăng nhưng giá trị gia tăng và năng suất trong khu vực xuất khẩu thấp; thị phần xuất khẩu lớn chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên thiên nhiên. Giá nhân công rẻ là yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư, tuy nhiên lợi thế này không đủ để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong môi trường toàn cầu đang thay đổi. Giá trị gia tăng thấp của khu vực xuất khẩu cùng với nhu cầu nội địa tăng đã làm gia tăng thâm hụt cán cân thương mại. Càng xuất khẩu nhiều càng phải nhập khẩu lớn – điều này không thể được tiếp tục duy trì trong dài hạn. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng đồng vốn giảm, vì thế, để duy trì tốc độ tăng trưởng cao cần phải đầu tư nhiều hơn, dẫn đến tình trạng phụ thuộc vào các dòng vốn nước ngoài...

- Cụm ngành và năng lực cạnh tranh

Cụm ngành là công cụ cực mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh, từng doanh nghiệp riêng lẻ không thể làm được điều này. Cụm ngành giúp tăng năng suất và hiệu quả hoạt động; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, thương mại hoá và hình thành các doanh nghiệp mới, vì thế, cụm ngành phản ánh tác động liên kết và lan tỏa giữa các doanh nghiệp và các tổ chức có liên quan trong cạnh tranh. Điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là cạnh tranh chủ yếu dựa trên yếu tố chi phí hơn là dựa trên chất lượng; chiến lược hoạt động còn mang tính ngắn hạn; các doanh nghiệp nhà nước lớn hoạt động theo mô hình tập đoàn nhưng lại thiếu sự gắn kết và hỗ trợ.

Năng lực cạnh tranh của Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa trên những lợi thế tự nhiên được thừa hưởng, đặc biệt là vị trí địa lý và dân số. Những lợi thế này đã được bộc lộ và phát huy thông qua việc mở cửa thị trường và đầu tư vào kết cấu hạ tầng. Tuy nhiên, hiện nay, những lợi thế cũ đang mất dần vai trò, trong khi những lợi thế mới chưa được tạo dựng đang làm lộ diện ngày càng rõ những dấu hiệu về sự bất cập của mô hình phát triển mang tính cổ điển.

- Hướng tới một chiến lược mới: đặt năng lực cạnh tranh ở vị trí trung tâm

Ngoài việc nhấn mạnh về tốc độ tăng trưởng, tiêu chí năng lực cạnh tranh cần trở thành trọng tâm trong chính sách phát triển. Các ưu tiên trong chính sách phát triển mang tính chiến lược được khái quát thành 3 nhóm: điều chỉnh những mất cân đối kinh tế vĩ mô ngày càng tăng; giải quyết những những nút thắt cổ chai trong các các nhân tố đầu vào quan trọng; tạo nền tảng cho năng suất cao hơn.

Những đề xuất chính và kiến nghị cụ thể được đưa ra là:

+ Minh bạch về chính sách tài khoá, cần thành lập cơ quan trung ương có chức năng theo dõi và báo cáo về kỷ luật ngân sách, theo đó, thiết lập cơ chế thường xuyên theo dõi, kiểm toán chi tiêu công; củng cố chất lượng và hiệu quả của quản lý nợ công; làm rõ vai trò của Quốc hội, Chính phủ và Ngân hàng Trung ương trong điều hành chính sách tiền tệ và xác định rõ ràng những mục tiêu của chính sách này; quản lý thị tường tài chính, trong đó, củng cố năng lực quản lý giám sát thị trường tài chính thông qua Ngân hàng Trung ương; phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó, củng cố chức năng nhiệm vụ và hoạt động của Hội đồng chính sách tài chính tiền tệ quốc gia.

+ Giải quyết các nút thắt kinh tế vi mô đang xuất hiện trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, kỹ năng lao động và năng lực hành chính. Mặc dù đã được Chính phủ xác định đây là những lĩnh vực cần ưu tiên cải cách, nhưng những chính sách hiện nay tỏ ra chưa hiệu quả. Vì thế, một là, trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo kỹ năng lao động, cần xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia trên cơ sở nghiên cứu sâu về những loại kỹ năng cần thiết cho tăng trưởng trong tương lai; cải cách quản lý nhà nước về giáo dục; đẩy mạnh đào tạo nghề; thành lập Quỹ năng suất quốc gia nhằm nghiên cứu và hỗ trợ các sáng kiến nâng cao năng suất của cụm ngành. Hai là, đối với kết cấu hạ tầng, cần xây dựng một cơ chế lập kế hoạch tập trung cho việc điều phối, giám sát và đánh giá các dự án phát triển hạ tầng; củng cố hệ thống quản lý đấu thầu công; xây dựng các giải pháp tài chính mang tính thị trường cho đầu tư hạ tầng... Ba là, phát triển cụm ngành, cụ thể: rà soát lại các chính sách hiện nay, lấy cụm ngành làm trung tâm; tiến hành lập bản đồ các cụm ngành nhằm định vị và đánh giá các cụm ngành trên toàn quốc; khuyến khích thực hiện các cụm ngành thí điểm thông qua việc thành lập một Quỹ sáng kiến Cụm ngành Việt Nam... Bốn là, chuyên nghiệp hóa quy trình ra chính sách. Năm là, nâng cao năng lực khu vực công...

Trong phần cuối của Báo cáo, giáo sư Mai-cơn E. Poóc-tơ đã phân tích những yếu tố cần xác định rõ khi xây dựng một chiến lược kinh tế quốc gia đối với Việt Nam, chẳng hạn như: đâu là vị thế cạnh tranh đặc thù của Việt Nam xét từ góc độ vị trí địa lý, di sản văn hóa, các thế mạnh hiện tại và tiềm năng (Việt Nam có giá trị đặc thù gì với tư cách là điểm đến kinh doanh?; nên hướng tới những cụm ngành hoạt động nào?; Việt Nam đóng vai trò như thế nào đối với các nước bạn, với khu vực và thế giới? những yếu tố nào của môi trường kinh doanh là thế mạnh độc đáo của Việt Nam, những điểm yếu nào cần được giải quyết để tháo gỡ các trở ngại...?); xác định ưu tiên và trình tự cho phát triển kinh tế...

Trong phần thảo luận bàn tròn, giáo sư Mai-cơn E. Poóc-tơ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc, tiến sỹ Vic-to-ri-a Qua-qua (Victoria Kwakwa), Giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, Tổng giám đốc Intel Producs Việt Nam Ric Ho-uốt (Rick Howarth), Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam Nguyễn Quang Minh đã trao đổi với các đại biểu tham dự hội thảo các vấn đề liên quan đến: phát triển cụm ngành ở Việt Nam; nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; ý tưởng về việc thành lập Hội đồng Năng lực cạnh tranh quốc gia...

Kết luận Hội thảo, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đánh giá cao sự nỗ lực của nhóm nghiên cứu trong việc xây dựng Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010 và khẳng định rằng, sự công bố Báo cáo đã diễn ra rất đúng thời điểm: các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 đang được đưa ra lấy ý kiến đóng góp của đông đảo quần chúng nhân dân; các bộ, ngành cũng đang trong quá trình hình thành ý tưởng xây dựng chiến lược phát triển ngành; Việt Nam đang gặp khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu và cần tìm những giải pháp hiệu quả để xây dựng một chiến lược phát triển bền vững hơn.

Là một báo cáo đầu tiên đề cập tương đối đầy đủ về năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010 là một tài liệu quan trọng để các bộ, ngành, địa phương tham khảo trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển của mình - Phó Thủ tướng nhấn mạnh./.