TCCSĐT - Hoạt động nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo nhằm tiếp tục khai thác các lợi thế về tự nhiên, xã hội và thị trường, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào nuôi trồng thủy sản nhưng vẫn bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm sản xuất thủy sản có hiệu quả, an toàn thực phẩm, giải quyết việc làm và ổn định đời sống cư dân vùng biển, đảo.

Nuôi trồng thủy sản vùng biển và ven biển

Biển và ven biển là môi trường sinh sống của các loài thủy sinh trong đó có các loài thủy sản. Nước ta có diện tích lãnh thổ rộng 331.689 km2, trải dài từ 8023’ tới 21039’ vĩ độ Bắc, tạo nên vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm 230C, phù hợp cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Bờ biển nước ta dài 3.260 km, trải dài từ Bắc xuống Nam, với nhiều sông, suối đổ ra biển tạo thành các hệ sinh thái ven biển như đầm, phá, hệ sinh thái vùng cửa sông, hồ nước mặn ven biển, các bãi triều, rừng ngập mặn, các vũng, vịnh ven biển thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản biển và nuôi nước lợ phong phú. Trong đó, diện tích vùng triều có khả năng phát triển nuôi trồng thủy sản 1.130.000 ha, diện tích các eo vịnh khoảng 500.000 - 700.000 ha. Đây là vùng nuôi trồng thủy sản rộng lớn, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho hàng triệu cư dân vùng biển, đảo.

Hoạt động nuôi trồng thủy sản luôn bị tác động từ hai phía. Một mặt, nuôi trồng thủy sản phải gánh chịu các rủi ro từ những hoạt động bất khả kháng bên ngoài như bão lũ, từ các nguồn gây ô nhiễm của các ngành sản xuất khác: chất thải từ nông nghiệp (thuốc trừ sâu, diệt cỏ), chất thải công nghiệp (hóa chất, kim loại nặng), giao thông, du lịch, khai thác dầu khí. Nhưng mặt khác, hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng gây tác động bất lợi do việc xả các chất thải ra môi trường... Ngoài ra, yếu tố biến đổi khí hậu, thời tiết bất thường cũng gây ra tác động bất lợi đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản. Do vậy, vấn đề đặt ra cho các cấp chính quyền và người dân là phải quản lý môi trường nuôi trồng thủy sản, để hạn chế các tác động bất lợi đối với thủy sản nuôi. Trong xu hướng nuôi thâm canh, đặc biệt là nuôi công nghiệp thuật ngữ “chăm sóc môi trường” được sử dụng để nhấn mạnh vai trò quản lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo.

Những khó khăn, thách thức trong nuôi trồng thủy sản

Vùng biển, đảo nước ta đang đặt ra nhiều khó khăn, thử thách trong việc thực hiện quản lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Những khó khăn chính là về thể chế chính sách, cơ chế phối hợp giữa các ngành, trình độ và khả năng quản lý của cán bộ, trình độ khoa học kỹ thuật, ý thức bảo vệ môi trường và khả năng áp dụng công nghệ của người nuôi. Những khó khăn này không tác động đến hiệu quả của việc quản lý môi trường một cách riêng lẻ mà chúng tương tác với nhau.

Tài nguyên nước vùng biển, đảo do rất nhiều ngành sử dụng và quản lý. Mỗi ngành, mỗi cấp có những chính sách quản lý khác nhau, sự phối hợp giữa các ngành trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên nước, quản lý sử dụng một số loại thuốc, hóa chất có liên quan đến môi trường nuôi trồng thủy sản chưa được đồng bộ, còn mang tính đơn ngành. Mặt khác, các hoạt động kinh tế - xã hội thường độc lập với các hoạt động bảo vệ môi trường, do vậy các dự án thường chỉ nhằm phục vụ mục tiêu trước mắt, mà chưa tính đến tính bền vững của các hoạt động phát triển vùng biển, đảo.

Trong nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo vấn đề quy hoạch là một trong những hoạt động có ảnh hưởng đến quản lý môi trường. Trong những năm qua, nhiều dự án nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo đã được triển khai rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, một số vùng đã có quy hoạch nuôi trồng thủy sản, nhưng do thiếu vốn nên dự án quy hoạch chậm triển khai, dẫn đến dân phát triển tự phát.

Nhiều hệ sinh thái đất ngập mặn vùng biển, đảo đang bị phá hủy do phát triển kinh tế, dẫn đến mất nơi cư trú, sinh dưỡng, sinh sản... của nhiều loại động vật thủy sinh. Nguồn giống tự nhiên đang bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều loài thủy sản có nguy cơ tuyệt chủng.

Xu hướng quản lý môi trường nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo

Xu hướng kết hợp liên ngành và đa ngành. Quản lý môi trường biển, đảo thuộc loại hoạt động đa lĩnh vực liên quan đến nhiều ngành khác nhau nên cần có sự kết hợp quản lý mang tính chất đa ngành. Hoạt động bảo vệ môi trường nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo không thể thực hiện độc lập mà cần có sự hỗ trợ của các ngành khác. Hơn nữa, xét về góc độ kinh tế, nuôi trồng thủy sản biển là một chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Muốn phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững, các hoạt động nuôi trồng thủy sản phải được lồng ghép và phụ thuộc tương đối vào các hoạt động của các ngành khác như nông nghiệp, tài chính, giao thông, du lịch...

Xu hướng kết hợp giữa quản lý Nhà nước và quản lý dựa vào cộng đồng cư dân biển, đảo. Nhiều kết quả nghiên cứu gần đây cũng như thực tế cho thấy quản lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo chỉ mang lại hiệu quả kinh tế khi những người nuôi trồng thủy sản có những cam kết cộng đồng cùng sự tham gia chỉ đạo của chính quyền địa phương và sự hỗ trợ của các cấp, các ngành.

Xu hướng ứng dụng các công nghệ nuôi bền vững vùng biển, đảo. Áp dụng các công nghệ nuôi sạch và thân thiện với môi trường để hạn chế việc sử dụng thuốc, kháng sinh và hóa chất song song với việc sử dụng các chế phẩm sinh học đang là hướng đi mới cho hoạt động nuôi trồng thủy sản. Các mô hình nuôi như mô hình nuôi tôm - rong câu luân canh, nuôi nhuyễn thể bên cạnh các lồng nuôi cá biển... Việc sử dụng các chế phẩm sinh học đang là xu hướng hiện nay, thứ nhất là tạo ra sản phẩm sạch, thứ hai là xử lý được chất thải và làm sạch môi trường. Ngoài ra, nhiều sản phẩm chiết xuất từ một số thảo dược hay vi sinh có tác dụng phòng bệnh và tăng cường sức đề kháng cho động vật thủy sản vùng biển, đảo.

Xu hướng lồng ghép quản lý môi trường vào trong các dự án phát triển kinh tế - xã hội vùng biển, đảo. Trên thế giới hiện nay, các dự án phát triển kinh tế - xã hội thường được đánh giá tác động môi trường, trước khi dự án được phê duyệt. Hiện nay, khi phê duyệt dự án, người ta thường quan tâm đến tính bền vững của dự án. Muốn vậy, các hoạt động phát triển phải được cân nhắc về mặt môi trường, thông qua việc lồng ghép có hiệu quả các hoạt động bảo vệ môi trường vào trong dự án.

Những giải pháp trong thời gian tới

Lợi ích từ phát triển nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo rất lớn, không chỉ về mặt kinh tế, mà còn cả về mặt chính trị - xã hội đối với hàng triệu cư dân ven biển. Trong thời gian tới, muốn quản lý hiệu quả các vấn đề môi trường liên quan để nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo phát triển theo hướng bền vững, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, tăng cường quản lý môi trường nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo để phát triển bền vững và bảo đảm quản lý môi trường nuôi trồng thủy sản thống nhất trong chiến lược quản lý môi trường biển, đảo quốc gia.

Thứ hai, quan tâm đặc biệt đến công tác quy hoạch nuôi trồng thủy sản, phát triển hợp lý diện tích vùng chuyển đổi từ cây trồng ngập mặn sang nuôi trồng thủy sản, xây dựng vùng chuyên nuôi trồng thủy sản, bảo đảm phát triển nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo theo hướng đa dạng hóa các đối tượng nuôi, chuyển dần hình thức nuôi quảng canh sang nuôi bán thâm canh, nuôi thâm canh, có hệ thống khoanh nuôi phù hợp với các vùng sinh thái ven biển nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường và khả năng lây lan của dịch bệnh.

Thứ ba, đẩy mạnh việc xây dựng chính sách, tiêu chuẩn kỹ thuật có liên quan đến quản lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo theo hướng áp dụng công nghệ sạch, mở rộng ứng dụng mô hình thực hành nuôi tốt trong nuôi trồng thủy sản. Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá và quy hoạch các vùng nuôi thủy sản tập trung một cách có cơ sở khoa học làm căn cứ cho các chương trình đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản và giám sát việc tuân thủ quy hoạch.

Thứ tư, nâng cao nhận thức cho cư dân vùng ven biển vấn đề môi trường sản xuất sản phẩm vệ sinh an toàn thực phẩm trong nuôi trồng thủy sản. Quy hoạch, thiết lập mạng lưới quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh cho việc nuôi trồng thủy sản vùng biển, đảo./.