Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi)

Ngọc Mai (tổng hợp từ TTXVN, VOV.VN)
17:01, ngày 25-06-2015
TCCSĐT - Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, ngày 24-6, các đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường, biểu quyết thông qua dự thảo Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi); thảo luận về dự án Luật An toàn thông tin và dự án Luật Khí tượng thủy văn; nghe Tờ trình về đề nghị phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân tối cao.
Dự thảo Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi) gồm 9 chương, 73 điều.

Dự thảo Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi) đã được biểu quyết thông qua với 87,85% đại biểu Quốc hội tán thành. Luật này quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Kiểm toán nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán viên nhà nước; quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đối với hoạt động kiểm toán nhà nước.

Luật áp dụng đối với kiểm toán nhà nước; cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đối với hoạt động kiểm toán nhà nước.

Trước khi biểu quyết thông qua dự thảo Luật, các đại biểu Quốc hội đã nghe Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi).

Về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán (Điều 7), có ý kiến đề nghị, cân nhắc tính bắt buộc của Báo cáo kiểm toán và cho rằng chỉ có giá trị bắt buộc thực hiện sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn hoặc cơ quan hành pháp, bộ chuyên ngành, quản lý nhà nước, Bộ Công an, tòa án xác định đó là sai phạm.

Có ý kiến đề nghị cần có ý kiến của cơ quan cấp trên thì đối tượng được kiểm toán mới thực hiện kết luận, kiến nghị của kiểm toán nhà nước.

Vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quan điểm, việc quy định Báo cáo kiểm toán có tính bắt buộc nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đơn vị được kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán nhà nước trong việc đưa ra các kết luận, kiến nghị trong báo cáo kiểm toán, khắc phục tình trạng thực hiện kết luận, kiến nghị của kiểm toán nhà nước những năm qua chưa nghiêm do tồn tại của pháp luật hiện hành.

Theo quy định của Hiến pháp, kiểm toán nhà nước là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Do vậy, Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán nhà nước cũng mang tính độc lập, không một cơ quan nào có thể can thiệp và kiểm toán nhà nước phải chịu trách nhiệm trước kết luận, kiến nghị của mình. Vì vậy, việc quy định Báo cáo kiểm toán phải được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn hoặc cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp xác định có sai phạm là không phù hợp với tinh thần của Hiến pháp.

Khi có căn cứ cho rằng kết quả kiểm toán ghi trong báo cáo kiểm toán của kiểm toán nhà nước là trái pháp luật, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đơn vị được kiểm toán thì đơn vị được kiểm toán có quyền khiếu nại theo Điều 69 của Dự thảo luật.

Về đơn vị được kiểm toán (Điều 55), một số ý kiến đề nghị, những doanh nghiệp nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống nên để cho kiểm toán độc lập kiểm toán, khi thấy cần thiết Kiểm toán nhà nước chỉ thẩm tra kết quả kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng về nguyên tắc, ở đâu có tài chính công, tài sản công là phải được kiểm toán theo quy định tại khoản 2 Điều 118 của Hiến pháp, không phân biệt đối tượng quản lý, sử dụng.

Tuy nhiên, để phù hợp với năng lực của kiểm toán nhà nước hiện nay và tình hình quản lý doanh nghiệp nói chung trong nền kinh tế, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo luật quy định đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ vẫn kiểm toán toàn diện như Luật hiện hành; đối với doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống, giao cho Tổng kiểm toán nhà nước trong trường hợp cần thiết thì quyết định lựa chọn mục tiêu, tiêu chí, nội dung và phương pháp kiểm toán phù hợp.

Cần bổ sung quy định về chế độ bảo mật thông tin


Thảo luận tại hội trường về Dự án Luật An toàn thông tin, các đại biểu tập trung vào các nội dung chính gồm tên gọi và phạm vi điều chỉnh của Luật, bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng; quản lý mật mã dân sự; kinh doanh an toàn thông tin; trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thông tin.

Đại biểu đề nghị đẩy mạnh tuyên truyền xã hội về an toàn thông tin. Ngoài ra, cần nghiên cứu quy định về bố trí ngân sách cho đảm bảo an toàn thông tin, phòng là chính vì phòng thì ít tiền nhưng chữa thì vô cùng tốn kém; đồng thời các thủ tục hành chính cần chặt chẽ hơn, nhất là việc cấp giấy phép.

Theo nhiều đại biểu, hiện nay số lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam cao nhất Đông Nam Á; 90% người dùng thường xuyên bị tin nhắn rác làm phiền, khoảng 6.500 trang web bị tấn công vì vậy vấn đề bảo vệ về thông tin cá nhân trên mạng là rất quan trọng, nhất là khi sử dụng dịch vụ người dùng phải chia sẻ thông tin cá nhân như số điện thoại, địa chỉ.

Các đại biểu cũng đề nghị Luật cần giải thích rõ hơn một số từ ngữ như “thông tin mạng” hay một số hành vi ở điều 7; về vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng cần có sự phân loại rõ thông tin nào sẽ được nhà nước bảo vệ. Tên gọi “Mật mã dân sự” là chưa phù hợp vì chưa bao quát được phạm vi điều chỉnh, có ý kiến đề xuất có thể gọi là “mật mã thương mại” hoặc “mật mã sử dụng trong thương mại”...

Phát biểu kết luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết tại buổi thảo luận đã có 19 ý kiến phát biểu của các đại biểu, nhiều nội dung mang tính kỹ thuật rất sâu. Đa số ý kiến đều tán thành với tờ trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra dự án Luật An toàn thông tin của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Tuy nhiên, dự án Luật vẫn còn những khiếm khuyết nhất định cần được rà soát, bổ sung, điều chỉnh, làm rõ các qui định, các chương, điều.

Phó Chủ tịch Quốc hội cho rằng cần nghiên cứu thêm các vấn đề: Các hành vi bị nghiêm cấm, các chế tài xử phạt, ứng cứu sự cố an toàn thông tin, việc ứng cứu khẩn cấp bảo đảm an toàn an ninh quốc gia, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm an toàn trên mạng...

Ngoài ra, các quy định về việc giám sát hệ thống an toàn thông tin; việc bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng còn hời hợt, cần nghiên cứu thêm; vấn đề về phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin, về quản lý nhà nước; về an toàn thông tin của các bộ, ngành, chính phủ, chức năng của Quốc hội cần được tiếp tục làm rõ. Bên cạnh đó, cần rà soát các qui định của Luật với các qui định của công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên tham gia...

Chất lượng thông tin dự báo quyết định công tác phòng chống thiên tai

Qua thảo luận, các đại biểu cơ bản nhất trí với việc cần thiết ban hành Luật Khí tượng thủy văn trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp như hiện nay để hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý, tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Đối với việc phân cấp cấp phép hoạt động dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, các đại biểu góp ý tại Khoản 5, Điều 25, dự thảo Luật quy định Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép cho các tổ chức, cá nhân dự báo cảnh báo khí tượng thủy văn trên quy mô quốc gia, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động dự báo cảnh báo khí tượng thủy văn tại Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp phép cho tổ cá nhân dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn trong phạm vi địa phương.

Tuy nhiên, quy định này chưa có tính khả thi cao vì các yếu tố khí tượng thủy văn có liên kết chặt chẽ mang tính khu vực, tính vùng rộng lớn, liên vùng, không biên giới, do đó hoạt động dự báo không thể bó hẹp trong một tỉnh thành phố. Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo cần xem xét kỹ nội dung này.

Dự thảo Luật cần nhấn mạnh vào việc đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư trong hoạt động khí tượng thủy văn; đồng thời khuyến khích các tổ chức, xã hội và cá nhân tham gia các hoạt động về quan trắc, dự báo, cảnh báo và sử dụng thông tin dữ liệu liên quan đến hoạt động khí tượng thủy văn.

Tại Điều 5, việc mở rộng như dự thảo Luật sẽ huy động được các nguồn lực xã hội, tranh thủ được các trang thiết bị cho các hoạt động khác nhằm tương hỗ trong việc dự báo, cảnh báo những hiện tượng biến đổi khí hậu, khí tượng thủy văn. Do đó, dự thảo Luật cần hướng mạnh hơn nữa việc tăng cường thu hút đãi ngộ, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc trong lĩnh vực này.

Đặc biệt, những nơi vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo là vùng đặc thù, các trạm quan trắc phải ở những vị trí, độ cao nhất định mới phản ánh được chính xác tình hình khí tượng thủy văn và sự biến đổi khác.

Dự thảo Luật cần bổ sung những quy định về hệ thống tổ chức của ngành theo hướng tăng cường vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan nhà nước về khí tượng thủy văn đối với đơn vị sự nghiệp, quan tâm tới việc quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn và giám sát biến đổi khí hậu quốc gia.

Kết luận phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân yêu cầu rà soát lại toàn bộ dự thảo Luật, nghiên cứu hoàn chỉnh để đảm bảo bao quát các nội dung cần điều chỉnh để quy định thật đầy đủ và rõ, tránh chồng chéo với các quy định tại các Luật chuyên ngành khác; tránh để thiếu sót các quy định cần thiết liên quan đến khí tượng thủy văn.

Các quy định tại dự thảo Luật phải gắn kết với các mục đích phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh. Các nội dung được góp ý, đề nghị Ban soạn thảo, Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường nghiên cứu, tiếp thu, giải trình, chỉnh lý để hoàn thiện dự thảo Luật.

* Cũng trong chiều nay, Quốc hội nghe Tờ trình và thảo luận về đề nghị phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình trình Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước quyết định bổ nhiệm Thẩm phán TANDTC đối với 15 người, gồm:

1. Ông Bùi Ngọc Hòa, sinh ngày 15-10-1955, Ủy viên Ban cán sự, Bí thư Đảng ủy, Phó Chánh án Thường trực TANDTC.

2. Ông Nguyễn Sơn, sinh ngày 20-6-1957, Phó Bí thư Ban cán sự Đảng, Phó Chánh án TANDTC, ĐBQH khóa XIII

3. Ông Tống Anh Hào, sinh ngày 24-9-1956, Ủy viên Ban cán sự Đảng, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chánh án TANDTC.

4. Ông Nguyễn Văn Thuận, sinh ngày 21-5-1958, Ủy viên Ban cán sự Đảng, Phó Chánh án TANDTC

5. Ông Nguyễn Văn Hạnh, sinh ngày 6-1-1959, Thiếu tướng, Ủy viên Ban cán sự đảng, Phó Chánh án TANDTC, Chánh án Tòa án quân sự trung ương.

6. Bà Nguyễn Thúy Hiền, sinh ngày 20-6-1960, Ủy viên Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Tư pháp (Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp giới thiệu)

7. Bà Đào Thị Xuân Lan, sinh ngày 8-9-1961, Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, ĐBQH khóa XIII (Đảng đoàn Quốc hội giới thiệu)

8. Bà Nguyễn Thị Hoàng Anh, sinh ngày 23-5-1960, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHXHCN Việt Nam tại Cộng hòa LB Đức (Ban cán sự Đảng Bộ Ngoại giao giới thiệu)

9. Ông Nguyễn Trí Tuệ, sinh ngày 28-9-1963, Thẩm phán trung cấp, Ủy viên Ban cán sự đảng, Chánh Văn phòng Ban cán sự, Vụ trưởng Vụ tổ chức – Cán bộ TANDTC kiêm trưởng khoa Đào tạo Thẩm phán Trường cán bộ Tòa án.

10. Bà Lương Ngọc Trâm, sinh ngày 10-8-1966, Thẩm phán TANDTC, Chánh tòa Tòa hình sự TANDTC

11. Ông Lê Văn Minh, sinh ngày 30-11-1964, Thẩm phán TANDTC, Viện trưởng Viện Khoa học xét xử TANDTC.

12. Ông Nguyễn Văn Du, sinh ngày 6-6-1963, Thẩm phán TANDTC. Chánh tòa Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội, thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

13. Ông Chu Xuân Minh, sinh ngày 20-1-1956, Thẩm phán TANDTC, Hiệu trưởng Trường cán bộ Tòa án, thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

14. Ông Đặng Xuân Đào, sinh ngày 10-9-1955, Thẩm phán TANDTC, Chánh tòa Tòa Kinh tế TANDTC, thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

15. Ông Trần Văn Cò, sinh ngày 21-1-1958, Thẩm phán TANDTC, Chánh tòa phúc thẩm TANDTC tại TP.HCM, thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC.

Theo dự kiến chương trình Kỳ họp, sáng 25-6, Quốc hội biểu quyết thông qua các luật: Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Luật Ngân sách Nhà nước (sửa đổi); Luật An toàn, vệ sinh lao động; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân.

Quốc hội cũng biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư xây dựng dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành./.