Làng Tây Nguyên đối với sự phát triển bền vững hiện nay

TS. Buôn Krông Tuyết Nhung Đại học Tây Nguyên
21:24, ngày 20-02-2015
TCCSĐT - Làng ở Tây Nguyên được liên kết, tồn tại và phát triển bởi một không gian cư trú, không gian tâm linh với tính dân chủ và tính cộng đồng cao, tạo nên nội lực để phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, trong quá trình đổi mới và hội nhập, trước yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, việc phát huy nội lực của làng ở Tây Nguyên đang là vấn đề cấp bách được đặt ra.
Làng ở Tây Nguyên là một tổ chức xã hội đặc biệt, được hình thành, tồn tại và phát triển trên nền tảng của luật tục truyền thống, không chỉ được xác định về mặt lãnh thổ mà còn là một không gian tâm linh, không gian văn hóa - xã hội, con người được hưởng đặc quyền về kinh tế, văn hóa một cách bình đẳng, dân chủ. Ngày nay, đặc trưng làng ở Tây Nguyên đã biến đổi theo chiều hướng mới và có vai trò quan trọng đối với phát triển xã hội ở khu vực này. Việc xác định đúng vai trò của làng ở Tây Nguyên đối với phát triển bền vững là một hướng đi đúng phù hợp với chủ trương của Chính phủ trong việc phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng song song với phát triển văn hóa hiện nay.

Không gian cư trú được xác lập về mặt lãnh thổ

Làng ở Tây Nguyên thường được tạo thành bởi sự cộng cư, liên kết của các gia đình cùng huyết thống và các dòng họ khác nhau. Vị trí xây dựng làng thường dựa trên kinh nghiệm và sự thiêng hóa để tạo nên một không gian cư trú. Tâm điểm sức mạnh của làng được xác định đầu tiên qua vị trí từ ngôi nhà rông đối với các dân tộc Bắc Tây Nguyên hay ngôi nhà của khua buôn, kranh bon, hay khua plei (trưởng làng) đối với cộng đồng Êđê, Jrai, K’ho.... Các ngôi nhà được song hành theo huyết thống, theo dòng họ, xuất hiện nối tiếp tạo nên một không gian xã hội ổn định, trật tự, thể hiện sự thống nhất cao. Sự nhất quán này thể hiện tài năng, sáng tạo của cộng đồng, của buôn trưởng và hội đồng làng. Làng các cộng đồng Tây Nguyên xuất hiện không chỉ vì nhu cầu cư trú mà còn chứa đựng kinh nghiệm, nhận thức, quan niệm cộng đồng.

Cấu trúc tổ chức xã hội làng truyền thống Tây Nguyên được điều hành bởi hội đồng làng, gồm đại diện của các gia đình trong làng. Đứng đầu hội đồng làng là trưởng buôn, thường là người đàn ông lớn tuổi, giàu kinh nghiệm, có khả năng hùng biện và khả năng tập hợp cộng đồng, có đức độ, giàu đức hy sinh và đặc biệt là làm kinh tế giỏi. Sự vận hành và phát triển của làng được tuân thủ nghiêm túc theo các quy định của luật tục dưới vai trò của khua buôn. Các hoạt động kinh tế, văn hóa và hành vi, đạo đức của cộng đồng được khua buôn và hội đồng làng giám sát một cách chặt chẽ, thường xuyên bằng luật tục.

Như vậy, trước hết làng đối với các cộng đồng Tây Nguyên được xác định về mặt lãnh thổ và mang tính tự trị cao. Lãnh thổ này là tài sản chung của cả cộng đồng làng, cộng đồng làng có nghĩa vụ bảo vệ và được quyền sở hữu các quyền lợi như nhau, được cộng đồng các làng lân cận công nhận và tôn trọng, trở thành “không gian xã hội” bất khả xâm phạm.

Hiện nay, mô hình làng tự quản theo luật tục ở Tây Nguyên đã bị phá vỡ, kiểu làng sống thuần nhất còn tồn tại rất ít ở các vùng xa, vùng sâu. Những vùng đất thuận lợi xuất hiện kiểu làng sống đan xen, cộng cư giữa các dân tộc di cư và dân tộc tại chỗ. Các “trưởng thôn theo kiểu mới” được thay thế vai trò của khua buôn ở các làng của cộng đồng Tây Nguyên với tỷ lệ khá cao. Nhà rông và nhà của buôn trưởng không còn trở thành sức mạnh quy tụ cộng đồng, công năng và vai trò của “nhà văn hóa mới” bị tách ra khỏi vai trò của buôn trưởng và cộng đồng, giá trị truyền thống bị phai nhạt.

Không gian tâm linh, tín ngưỡng

Làng của cộng đồng Tây Nguyên chứa đựng trong nó một hệ thống tri thức bản địa phong phú. Với quan niệm vạn vật hữu linh, cộng đồng Tây Nguyên luôn tôn trọng các sự vật trong tự nhiên và xã hội theo những nguyên tắc nhất định. Làng được tạo dựng từ đặc ân của thiên nhiên, từ cột nhà, vách nứa, sàn hiên, mái tranh... Việc đưa chúng về phục vụ cho con người cũng đồng nghĩa với việc cắt đứt vòng đời của chúng, di chuyển chúng từ môi trường tự nhiên tới môi trường xã hội (không gian làng). Chúng được con người thiêng hóa qua các nghi lễ tâm linh và được xem như là những hiện vật có linh hồn. Như vậy, làng còn là một không gian tín ngưỡng. Từ phương tiện sinh hoạt (nhà rông, nhà dài, vật dụng gỗ…) đến các điểm tâm linh (rừng đầu nguồn, đất đầu làng, bến nước thiêng, khu mộ địa), đất nông nghiệp (đất rừng sản xuất, đất rừng phi sản xuất) và các hoạt động tín ngưỡng (lễ hội dân gian) đều thể hiện sự gắn kết giữa con người với môi trường tự nhiên.

Bên cạnh việc tiếp cận và tận dụng thiên nhiên, cộng đồng Tây Nguyên còn xây dựng những nguyên tắc bảo vệ, nuôi dưỡng tự nhiên được quy định khá rõ trong luật tục. Sự ứng xử này còn được thể hiện qua các hoạt động lễ hội dân gian tiêu biểu như: lễ hội cúng bến nước, lễ hội cúng đất làng, lễ hội cầu mưa, lễ hội bỏ mả...

Hiện nay, không gian rừng thiêng của cộng đồng Tây Nguyên không còn, đất đai bị khai thác triệt để, môi trường bị xâm phạm nghiêm trọng,… đã tạo ra những hệ lụy đáng lo ngại. Phong tục tập quán - cơ sở hình thành hành vi, thái độ ứng xử của con người đối với thiên nhiên cũng đang dần biến mất, làm thay đổi cơ cấu làng và tín ngưỡng của cộng đồng; tình trạng nghèo đói, thất nghiệp có xu hướng tăng trong các nhóm cộng đồng Tây Nguyên.

Không gian văn hóa - xã hội

Trước đây, kinh tế cộng đồng Tây Nguyên phát triển gắn chặt với tự nhiên, tương tác tự nhiên, tạo nên đặc trưng xã hội gắn chặt với môi trường thiên nhiên. Cộng đồng xây dựng một hệ thống nguyên tắc ứng xử đúng mực đối với môi trường và tài nguyên. Rừng được coi là không gian sinh tồn, không gian xã hội cộng đồng Tây Nguyên. Đất rừng thuộc sở hữu tập thể, Hội đồng già làng quản lý đất, rừng của cộng đồng bằng hệ thống luật tục chặt chẽ. Quyền sở hữu tập thể của cộng đồng làng đối với đất và rừng chính là nền tảng của đời sống vật chất, kinh tế, văn hóa, tinh thần, tâm linh, đạo đức của làng.

Trên cơ sở quan niệm vạn vật hữu linh, cộng đồng cho rằng đất, rừng có linh hồn như một sinh vật sống, chính vì thế khi đất đai bạc màu cũng là lúc đất đai bị ốm. Quan niệm này không chỉ thể hiện thái độ của họ đối với tài nguyên đất mà còn thể hiện mối tương tác của con người đối với môi trường sinh sống. Gia súc có giá trị như trâu, bò không chỉ được định giá trong việc trao đổi các hiện vật quý hiếm như cồng, chiêng, nồi đồng... mà trâu, bò còn được dùng để phục vụ cho các nghi lễ, lễ hội truyền thống...

Trước đây, đơn vị kinh tế chủ yếu gắn với từng hộ gia đình và tuân thủ sự phân công giới theo một nguyên tắc chặt chẽ. Sản phẩm lao động được phân phối bình quân trên đầu người, và tuân thủ một cách tuyệt đối theo nguyên tắc của tập thể. Khi diện tích đất canh tác còn rộng lớn, rừng tự nhiên còn nhiều, hoạt động kinh tế nông nghiệp của cộng đồng bản địa phát triển khá mạnh, số gia đình đói giáp hạt chiếm tỷ lệ thấp. Hiện nay, sự gia tăng dân số, rừng bị tàn phá, đất rừng bị thu hẹp, tài nguyên cạn kiệt, sự biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế của cộng đồng bản địa.

Đến nay, nền kinh tế Tây Nguyên đang diễn ra quá trình cơ cấu lại với sự chuyển biến từ sở hữu ruộng đất cộng đồng buôn làng sang nhiều hình thức sở hữu đan xen, từ kinh tế nông nghiệp nương rẫy, tự cấp tự túc, sang kinh tế hàng hóa. Sự chậm thích ứng với kinh tế thị trường của cộng đồng Tây Nguyên khiến người dân càng thua thiệt về cơ hội phát triển, khoảng cách giàu nghèo có nguy cơ ngày càng xa hơn.

Để làng Tây Nguyên phát triển theo hướng bền vững

Làng truyền thống ở Tây Nguyên trước đây được xem là một “không gian xã hội” bảo đảm hài hòa lợi ích của cộng đồng trên nền tảng của yếu tố xã hội và điều kiện tự nhiên. Các yếu tố ấy trở thành tiền đề để phát triển một xã hội bền vững. Tuy nhiên, hiện nay, làng của Tây Nguyên đã có nhiều thay đổi, kiểu làng sống đan xen, không thuần nhất xuất hiện ngày càng nhiều. Sự cộng cư chưa được quy hoạch chặt chẽ đã gây xáo trộn về văn hóa, kinh tế, tín ngưỡng của các cộng đồng Tây Nguyên, đặc biệt đối với cộng đồng tại chỗ. Sự thay đổi đột ngột về văn hóa - xã hội đã làm mờ đi tính cộng đồng, tách rời tính liên kết giữa con người với môi trường tự nhiên. Để phát triển xã hội Tây Nguyên theo hướng bền vững, làng Tây Nguyên luôn được xem là hạt nhân quan trọng. Do vậy, cần có những hành động thiết thực để xây dựng văn hóa làng Tây Nguyên, đó là:

Thứ nhất, quy hoạch lại thiết chế làng ở Tây Nguyên một cách hệ thống theo mô hình đồng nhất từng cộng đồng để thuận lợi cho việc quản lý và phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng mô hình làng tiêu biểu cho từng cộng đồng gắn với môi trường văn hóa, sinh thái, môi trường tâm linh.

Thứ hai, thực hiện cơ chế song đôi giữa luật tục với pháp luật của Nhà nước trong quản trị, điều hành và phát triển xã hội; phối hợp nhịp nhàng vai trò của các khua buôn, hội đồng làng bên cạnh vai trò các tổ chức đoàn thể của chính quyền cơ sở. Kế thừa có chọn lọc giá trị và vai trò, chức năng của mô hình làng truyền thống để phát huy sức mạnh vai trò của cộng đồng, của khua buôn, của hội đồng làng theo mô hình nông thôn mới.

Thứ ba, thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo; tích cực xây dựng đời sống văn hóa gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới hiện nay.

Thứ tư, nâng cao dân trí cho cộng đồng và chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực tại chỗ phục vụ cho phát triển kinh tế, quản lý xã hội tại các buôn làng ở Tây Nguyên; đào tạo nghề phù hợp với thực tiễn ở cấp cơ sở.

Thứ năm, có cơ chế đặc thù phát triển văn hóa - xã hội để nâng cao tính cộng đồng trong việc xây dựng “làng văn hóa” theo hướng phát triển bền vững bằng lộ trình du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch tâm linh.../.