Quan hệ kinh tế Việt Nam - EU năm 2007 và triển vọng năm 2008
Năm 2007, là năm đánh dấu EU tròn 50 tuổi. Nửa thế kỷ hình thành và phát triển đã đưa EU lớn mạnh dần từ 6 nước ban đầu lên 27 thành viên hiện nay. Với sức mạnh tổng hợp của hơn 500 triệu dân, đóng góp tới 28% GDP thế giới, EU là một khu vực kinh tế hùng mạnh và đầy tiềm năng của thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực đồng ơrô năm 2007 tăng 2,6%, cao hơn năm 2006. Ngày nay, EU được đánh giá là hình mẫu về hòa bình, thịnh vượng trên toàn cầu, có quan hệ kinh tế rộng khắp với các khối và quốc gia trên thế giới.
1. Quan hệ kinh tế Việt Nam - EU năm 2007
Quan hệ kinh tế Việt Nam với EU có một số điểm mới so với các năm trước. Nhu cầu hàng hoá, dịch vụ của EU cũng tăng thêm cả về thương mại, đầu tư du lịch. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện cam kết WTO với tư cách là thành viên chính thức thứ 150. Vị thế mới, tạo tiền đề cho Việt Nam mở rộng thị trường buôn bán bình đẳng với các nước khác trong các nước thành viên, trong đó có 27 nước thuộc EU, phù hợp với cam kết WTO và luật pháp quốc tế. Do vậy, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với EU tiếp tục được mở rộng cả về phạm vi, số lượng và chất lượng trên tất cả các lĩnh vực đầu tư, thương mại và du lịch.
Về đầu tư: Năm 2007 đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của EU vào Việt Nam. Tổng số vốn đăng ký mới của EU và Việt Nam đạt trên 5,2 tỉ USD, tăng khoảng 20% so năm 2006 và đứng vị trí thứ nhất so với các nước, vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam năm 2007( Hàn Quốc 4,46 tỉ USD, Xin-ga-po 2,6 tỉ USD; Đài Loan 1,73 tỉ USD;' Hồng Kông 238,8 triệu USD, Nhật Bản 965,1 triệu USD và Hoa Kỳ 358,2 triệu USD). Các quốc gia và vùng lãnh thổ của EU có dự án đầu tư lớn là Quần đảoVi-gin thuộc Anh 4.267,6 triệu USD tăng gấp 6,8 lấn năm 2006 (623 triệu USD); Quần đảo Cay-men 155 triệu USD so với 713 triệu USD năm 2006; tương tự như vậy, Hà Lan 154 triệu USD so với 345,69 triệu USD; Samoa 210 triệu USD so với 155 triệu USD, Pháp 158,4 triệu USD so với 58 triệu USD. Tính đên hết năm 2007, 15/27 nước EU có trên 664 dự án đầu tư trực tiếp và Việt Nam với số vốn đăng ký khoảng trên 12,1 tỉ USD tăng 40,7% (5,1 tỉ USD) so với năm 2006. Kết quả này tuy còn nhỏ so với tiềm năng của khu vực chiếm gần 28% GDP của toàn thế giới, nhưng lại là lớn so với Việt Nam. Các dự án của EU không nhiều, vốn không lớn như các dự án của Hàn Quốc, Mỹ, Xin-ga-po và Hồng Kông nhưng lại tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp dầu khí, điện nước, xây dựng kết cấu hạ tầng, chế biến nông sản thực phẩm công nghệ cao như sữa, đồ uống, viễn thông…Đó là những ngành thuộc công nghệ cao, sản phẩm sạch, tận dụng ưu thế về khoa học kỹ thuật, hàm lượng chất xám lớn, có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới rất cần cho kinh tế Việt Nam. Điểm mới về thu hút vốn FDI từ EU năm 2007 có 56 dự án đầu tư mới, với số vốn đăng ký trên 4,26 tỉ USD và vốn điều lệ trên 1,35 tỉ USD (Quần đảo Vi-gin thuộc Anh).
Bảng: Đầu tư trực tiếp từ các nước EU vào Việt Nam năm 2007
|
Nước |
Số dự án (dự án) |
Vốn đăng ký (nghìn USD) |
Vốn điều lệ (nghìn USD) |
|
Cộng hòa Ai len |
2 |
3.827 |
1.167 |
|
Đức |
13 |
49.361 |
21.159 |
|
Cộng hòa Séc |
5 |
13.313 |
9.313 |
|
Đan Mạch |
9 |
4.146 |
2.873 |
|
Hà Lan |
12 |
154.840 |
104.571 |
|
Italia |
4 |
49.636 |
5.636 |
|
Na-uy |
1 |
3.200 |
1.120 |
|
Phần Lan |
2 |
17.100 |
5.600 |
|
Pháp |
19 |
158.423 |
98.107 |
|
Quần đảo Cay- men |
6 |
155.152 |
46.775 |
|
Quần Đảo Vi-gin thuộc Anh |
56 |
4.267.652 |
1.358.734 |
|
Sa-moa |
16 |
210.600 |
79.370 |
|
Sip |
1 |
1.504 |
250 |
|
Thụy Điển |
4 |
1.340 |
850 |
|
Thụy Sĩ |
4 |
2.225 |
900 |
|
Vương quốc Anh |
18 |
47.036 |
29.411 |
|
Xlô-vê-ni-a |
2 |
4.000 |
2.000 |
(Nguồn : Tổng cục Thống kê)
Cùng với tăng dự án và vốn đầu tư trực tiếp FDI, các doanh nghiệp thuộc các nước EU còn mở rộng hình thức hợp tác liên doanh, liên kết kinh tế trên nhiều lĩnh vực. Năm 2007, nhiều tập đoàn kinh tế lớn, các doanh nghiệp của EU đã mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các doanh nghiệp Việt Nam. Điển hình là các tập đoàn vận tải biển và kinh doanh tàu vận tải biển nổi tiếng ở châu Âu như: Đan Mạch, Vương quốc Anh, Đức, Hà Lan... đã ký kết với Tập đoàn công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam (Vinashin) đóng mới các tầu biển chỏ hàng, công suất lớn từ 53 nghìn tấn đến 104 nghìn tấn, trị giá hàng tỉ Ơ rô. Hình thức liên kết kinh tế khác như gia công hàng dệt may, sản xuất chế biến sữa, đồ uống rượu, bia, nước giải khát, dược phẩm, dụng cụ y tế, thực phẩm cao cấp, ngân hàng, bảo hiểm... cũng không ngừng mở rộng nhằm tận dụng lợi thế về nguyên liệu và nhân công rẻ của các doanh nghiệp Việt Nam với máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, chuyên gia lành nghề của các doanh nghiệp EU. Quan hệ giữa EU và Việt Nam năm 2007 trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo bậc đại học, trên đại học đang được triển khai và có nhiều triển vọng.
Cùng với mở rộng quan hệ, đầu tư và hợp tác kinh tế, EU cũng là một trong những nhà tài trợ vốn ODA lớn và viện trợ không hoàn lại thông qua nhiều dự án xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn, nước sạch, trồng rừng nguyên liệu, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cấp cơ sở hạ tầng, miền núi, giáo dục đào tạo, y tế và nhiều chương trình phát triển xã hội khác. Nhiều dự án hỗ trợ thuộc nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường của các nước như Đan Mạch (HALIĐA), Thụy Điển (SUDA), Pháp, Đức, Hà Lan. Tổng số vốn ODA của EU dành cho Việt Nam vừa ký kết tháng 11 năm 2007 cho năm 2008 lên tới trên 1,2 tỉ USD, đứng thứ 2 sau Nhật Bản.
Kết quả hoạt động trong các lĩnh vực đầu tư năm 2007 đã nâng quan hệ kinh tế Việt Nam - EU lên tầm cao mới, góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đồng thời biến EU trở thành đối tác chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, so với tiềm năng và thế mạnh của 27 nước thành viên, những kết quả đó còn rất khiêm tốn và chưa đều. Vốn FDI đăng ký mới của EU mới chỉ bằng 29,5% tổng vốn FDI đăng ký mới vào Việt Nam cả năm 2007, bằng 116% của Hàn Quốc và gấp 2 lần Xin-ga-po. Cơ cấu vốn FDI cũng không đồng đều, trong đó 82% của Quần đảo Vir-gin thuộc Anh, 940 triệu USD còn lại của 14 nước, 12 nước không có dự án đầu tư mới.
Mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu vào EU tiếp tục tăng cao, năm 2007 đạt 920 triệu USD, tăng 27% so năm 2006 và đứng thứ 2 sau Hoa Kỳ (1,1 tỉ USD) và vượt Nhật Bản (700 triệu USD). Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này chủ yếu là tôm, mực đông lạnh, cá tra, cá ba sa... Sở dĩ có được kết quả đó là số doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường EU tăng do chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm của hàng hóa tăng.
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU năm 2007 đạt 1,5 tỉ USD, tăng 12% so với năm 2006. EU là thị trường lớn thứ 2 về xuất khẩu dệt may của Việt Nam sau Hoa Kỳ (4,4 tỉ USD), gấp hơn 2 lần Nhật Bản (648 triệu USD). Trong điều kiện phải cạnh tranh gay gắt với hàng dệt may của Trung Quốc, kết quả đó là đáng ghi nhận.
Mặt hàng cà phê, EU là thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với cà phê Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU năm 2007 đạt 815 triệu USD, chiếm gần 44% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này cả năm của Việt Nam (1.854 triệu USD). Các nước nhập khẩu cà phê Việt Nam nhiều trong EU là Đức, Pháp, Anh, Thụy Điển, Áo...
Sản phẩm gỗ là mặt hàng xuất khẩu sang EU có nhiều tiềm năng do cầu tăng nhanh cả về số lượng và chủng loại. EU là thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới nên trong năm 2007 các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đã khai thác tốt thị trường này. Có nhiều doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ ngoài trời thích hợp với thị trường EU. Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 600 triệu USD, tăng trên 22% so năm 2006 và chiếm 25,3% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này cả năm nhưng chỉ bằng 50% kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ (1,2 tỉ USD). Đồ gỗ Việt Nam đã xâm nhập vào thị trường hầu hết các nước EU, trong đó có: Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch. Mặt hàng đồ gỗ thích hợp đối với thị trường EU là đồ gỗ các doanh nghiệp sản xuất ngoài trời.
Bên cạnh các mặt hàng truyền thống, hàng xuất khẩu sang EU có thêm một số mặt hàng tiêu dùng chất lượng cao, thông qua liên doanh, gia công cho các doanh nghiệp EU và từng bước xây dựng thương hiệu Việt Nam. Điều đáng mừng là cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU năm 2007 đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng hàng hoá chất lượng cao, thực phẩm sạch, thủ công mỹ nghệ, giảm tỷ trọng hàng chất lượng trung bình, hàng nông sản thô... để phù hợp với thị trường tiêu dùng vốn rất khó tính này.
Sau khi Việt Nam vào WTO, một số rào cản kỹ thuật, các vụ kiện bán phá giá và những quy định bất bình đẳng trước đây được bãi bỏ hoặc hạn chế, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa nói chung sang EU. Đó là điều kiện thuận lợi góp phần quan trọng đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu vào thị trường này những năm tới.
Bên cạnh những tiến bộ đạt được, xuất khẩu sang thị trường EU năm 2007 cũng còn nhiều hạn chế. EU có dân số nhiều gấp hơn 2 lần so với Hoa Kỳ và trong đó có nhiều nước thuộc G8 nhưng kim ngạch xuất khẩu sang EU hầu hết các mặt hàng đều thấp (tổng kim ngạch mới bằng 78,5%, trong đó dệt may bằng 34,0%; thuỷ sản bằng 83,6%, giày dép băng 50%. Nhiều nước trong EU có quan hệ kinh tế truyền thống với Việt Nam như các nước Đông Âu (Ru-ma-ni, Bun-ga-ri, Ba Lan, Hung- ga- ri...), tốc độ khôi phục thị trường các nước này rất chậm.
Hàng nhập khẩu từ thị trường EU năm 2007 ước đạt trên 4,1 tỉ USD, tăng gần 1 tỉ USD so năm 2006 (3,12 tỉ USD). Kim ngạch nhập khẩu từ EU năm 2007 vào Việt Nam chỉ chiếm 6,8% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước 60,8 tỉ USD và thấp hơn tỷ lệ này của năm 2006 (7%) bằng 33% của khối ASEAN 12 tỉ USD. Các mặt hàng nhập khẩu từ EU chủ yếu là máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến gắn với việc chuyển giao công nghệ đặc biệt về công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Ngoài ra, hàng nhập khẩu từ EU năm 2007 còn một số hoá chất, nguyên liệu như bột mì, sữa bột, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc, phân bón, phụ liệu dệt may cần thiết cho công nghiệp hoá chất, công nghiệp dệt may, chế biến thực phẩm chất lượng cao của Việt Nam. Riêng lúa mì nhập khẩu cả năm lên tới 1.280 nghìn tấn, tăng 2,8% kim ngạch 370 triệu USD, tăng 64,3% so năm 2006, chủ yếu từ EU, hóa chất 1,44 tỉ USD, tăng 39%.
Nhìn chung, quy mô kim ngạch trao đổi thương mại 2 chiều giữa Việt Nam và EU năm 2007 đã lên tới trên 12,27 tỉ USD, tăng 2 tỉ USD so năm 2006 và tăng 4 tỉ USD so năm 2005. Như vậy, xuất siêu của Việt Nam vào thị trường EU năm 2007 lên tới trên 4 tỉ USD, là mức cao nhất trong những năm gần đây.
Về du lịch: Năm 2007 đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ du lịch giữa Việt Nam và EU. Số lượt khách du lịch các nước thuộc EU đến Việt Nam tăng nhanh. Tổng số lượt khách du lịch từ EU đến Việt Nam đạt trên 600 triệu lượt tăng 20% so năm 2006, chiếm 14,2% tổng lượt khách du lịch đến Việt Nam, nhưng cao hơn tốc độ tăng khách du lịch đến từ Hoa Kỳ (tăng 5,9%). Các nước có khách du lịch tăng nhanh là Anh tăng 27,5%; Bỉ tăng 32,5%; Đức tăng 32,7%; I-ta-li-a tăng 43%; Pháp tăng 38,9%; Tây Ban Nha tăng 34,9%; Thuỵ Điển tăng 25%; Thụy Sĩ tăng 27%... Thị trường du lịch Việt Nam ngày càng hấp dẫn khách du lịch các nước EU nhờ chất lượng du lịch có tiến bộ, hoạt động quảng bá du lịch sang châu Âu được Nhà nước và các doanh nghiệp quan tâm, chính trị - xã hội ổn định.
Kết quả đạt được tuy có cao hơn năm 2006 nhưng số lượng khách EU đến Việt Nam năm 2007 còn quá khiêm tốn, chỉ bằng 14,2% tổng lượt khách quốc tế. Bên cạnh một số nước tăng khá cao vẫn còn một số nước tăng chậm, thậm chí giảm, như Na - uy giảm 7,2%. Khách đến Việt Nam nhiều nhất là Pháp, cũng chỉ có 183,7 nghìn lượt người.
Những chuyển biến tích cực trong quan hệ đầu tư, hợp tác kinh tế, thương mại và du lịch giữa Việt Nam - EU trong năm 2007 là kết quả của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó quan trọng nhất là xuất phát từ hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư của cả Việt Nam và EU phù hợp với bối cảnh mới.
Chính phủ Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò của EU trong chiến lược phát triển kinh tế. Năm qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao thăm EU và một số nước thành viên, ký kết nhiều hiệp định kinh tế quan trọng về thương mại và đầu tư thông qua các tập đoàn kinh tế lớn. Chính phủ đã giao cho các bộ ngành hữu quan chủ động đề xuất và thực hiện các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy quan hệ kinh tế với EU lên tầm chiến lược. Theo đó, Việt Nam cam kết không phân biệt đối xử với các công ty của EU và thực hiên một số biện pháp mở cửa thị trường trong các lĩnh vực mà doanh nghiệp EU quan tâm, kể cả những lĩnh vực nhạy cảm như tài chính, chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm với tư cách là thành viên WTO.
Về phía EU, trong những năm qua, nhất là năm 2007 đã có nhiều nhà lãnh đạo cấp cao của các nước EU và lãnh đạo EC đã đến Việt Nam cùng hàng trăm nhà doanh nghiệp tìm hiểu thị trường và cơ hội đầu tư. Sự kiện quan trọng nhất trong năm là Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) H.M. Ba-rô-sô thăm chính thức Việt Nam. Qua chuyến thăm này các nhà lãnh đạo EU và Việt Nam đã chính thức khởi động đàm phán Hiệp định về đối tác và hợp tác (PCA) Việt Nam - EU nhằm đưa quan hệ kinh tế giữa hai bên lên tầm cao mới theo phương châm: Quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác toàn diện, lâu dài và tin cậy vì hoà bình và phát triển.
2. Triển vọng năm 2008
Năm 2008, kinh tế Việt Nam được nhiều nước trên thế giới đánh giá cao về khả năng thu hút vốn FDI và xuất khẩu sau 1 năm trở thành thành viên chính thức của WTO. Ngay từ đầu năm 2008, tại Hội nghị chủ đề “Việt Nam - ngôi sao đang lên của châu Á” ở Hà Nội, nhiều Tập đoàn kinh tế lớn của EU đã có mặt để tìm hiểu thị trường đầu tư, kinh doanh, du lịch với các đối tác Việt Nam. Đáng chú ý nhất là đoàn doanh nghiệp của Vương quốc Anh đại diện cho 14 tập đoàn kinh tế lớn do ngài Mác Ken (Mark Kent), Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam dẫn đầu dự hội nghị đã đánh giá cao môi trường đầu tư hấp dẫn của Việt Nam và khẳng định sẽ đầu tư lâu dài tại Việt Nam. Các tập đoàn cũng đề đạt nguyện vọng với Thủ tướng Chính phủ Việt Nam được mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện và tăng vốn đầu tư. Cùng với Anh, các nước khác của EU cũng có nhiều bước tiến mới về thương mại và đầu tư vào Việt Nam như Đức, Pháp, Hà Lan, Đan Mạch, Cộng hòa Séc... Thế và lực của cả 2 phía đối tác chiến lược đều tăng lên đáng kể, quan hệ kinh tế được hoàn thiện theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Quan hệ chính trị, ngoại giao được củng cố, mở rộng khi Việt Nam là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Do vậy, triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam - EU sẽ có bước phát triển mới cả về lượng và chất. Dự báo, năm 2008, tốc độ tăng trưởng ngoại thương 2 chiều giữaViệt Nam - EU sẽ đạt khoảng 25% và đầu tư của EU vào Việt Nam sẽ tăng trên 33% so với năm 2007.
Với triển vọng đó, dự báo một số chỉ tiêu chủ yếu trong quan hệ kinh tế Việt Nam - EU năm 2008 như sau:
- Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang EU đạt khoảng 10,5 tỉ USD, tăng 23,6% so năm 2007, trong đó:
+ Hàng giày dép đạt khoảng 2,8 tỉ USD, tăng 27%. Tốc độ này có thể đạt được vì thị trường EU còn lớn, trong khi nhiều chủng loại giày dép Việt Nam vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan của EU và không bị hạn chế về số lượng.
+ Hàng dệt may đạt 1,65 tỉ USD, tăng 13,8%.
+ Mặt hàng cà phê chỉ đạt bằng năm 2007 do sản lượng cà phê sản xuất trong nước năm 2007 giảm, giá thế giới đã đứng ở mức cao.
+ Hàng thuỷ sản đạt khoảng 1,15 tỉ USD, tăng 25% do nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đạt tiêu chuẩn vào thị trường EU và nguồn cung trong nước tăng, trong đó sản lượng thuỷ sản sản xuất năm 2007 đạt trên 4,1 triệu tấn, tăng 11,5%, chủ yếu tăng sản lượng nuôi trồng đạt trên 2 triệu tấn tăng 23,1% so năm 2006.
+ Đồ gỗ đạt khoảng 820 triệu USD, tăng 30% do một số doanh nghiệp chuyển sang sản xuất đồ gỗ nội thất xuất sang thị trường Hoa Kỳ.
Bên cạnh các mặt hàng chủ lực trên, năm 2008, thị trường EU còn có khả năng nhập khẩu từ Việt Nam một số mặt hàng mới như sản phẩm cơ khí, chế tạo (gia công), linh kiện điện tử và máy vi tính.
- Kim ngạch nhập khẩu từ EU tăng khoảng 40%, trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị hiện đại, nguyên liệu, phụ liệu, vật liệu phục vụ sản xuất công nghiệp trong nước.
- Khách du lịch đến Việt Nam từ EU đạt khoảng 800 triệu lượt khách, tăng 33% so năm 2007.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ EU vào Việt Nam năm 2008 đạt khoảng 6,3 tỉ USD, tăng 1,1 tỉ USD,(21,1%) so năm 2007. Triển vọng nguồn vốn FDI đầu tư mới tiếp tục tăng nhanh ở các nước Anh, Quần đảo Vi-gin thuộc Anh, Pháp, Đức và các nước Đông Âu mới gia nhập EU.
Đảng bộ và nhân dân Đồng Tháp vững bước cùng cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2008  (29/02/2008)
Chỉ số giá tiêu dùng tăng 6,02%  (28/02/2008)
Hội thảo quốc tế về tế bào gốc và dòng thực phẩm chức năng Flavin 7  (28/02/2008)
Tỉnh Cà Mau với việc thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”  (28/02/2008)
Tỉnh cà Mau với việc thực hiện cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”  (28/02/2008)
Hội nghị cấp cao về phòng chống tai nạn thương tích trẻ em  (28/02/2008)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm