Một số vấn đề về chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân hiện nay
Trong quá trình đổi mới chúng ta đã khắc phục được hai phương diện nhận thức chưa đúng về chính sách xã hội: hoặc coi chính sách xã hội là chính sách bao cấp của Nhà nước cho toàn bộ xã hội; hay coi chính sách xã hội chỉ là biện pháp phái sinh của chính sách kinh tế. Qua hơn 26 năm đổi mới, chúng ta đã xây dựng được một hệ thống chính sách xã hội giải quyết được khá nhiều vấn đề bảo đảm, bảo vệ và thực hiện quyền lợi của giai cấp công nhân. Thế nhưng hiện nay, mục tiêu và nội dung của chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân mới chủ yếu nhắm vào đối tượng công nhân thuộc khu vực kinh tế nhà nước. Mối quan hệ giữa đội ngũ công nhân khu vực kinh tế dân doanh với chính sách xã hội, cũng như mối quan hệ giữa mạng lưới bảo hiểm xã hội, mạng lưới cứu trợ xã hội và mạng lưới phục vụ xã hội cho toàn bộ giai cấp công nhân chưa gắn bó khăng khít. Từ đó nảy sinh vấn đề về nhận thức khái niệm, định hướng mục tiêu của chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân.
Những bất cập trong hệ thống chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân hiện nay
Trong nhận thức về khái niệm “chính sách xã hội” đối với giai cấp công nhân hiện nay
Mỗi chế độ xã hội, mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử đều có mục tiêu của chính sách xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, truyền thống dân tộc và có chú ý đến hoàn cảnh quốc tế. Tuy vậy, vẫn có một số điểm chung trong nội dung của chính sách xã hội của các quốc gia khác nhau, như bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, phục vụ xã hội để thực hiện bảo đảm xã hội, nhằm mang lại phúc lợi xã hội cho các đối tượng được hưởng chính sách xã hội.
Hiện nay, theo cách hiểu thông thường của nhiều quốc gia trên thế giới thì khái niệm “bảo hiểm xã hội” được dùng để chỉ sự điều chỉnh chế độ thu nhập của cá nhân, tập thể theo quy định của luật pháp nhằm bảo đảm an toàn xã hội. Khái niệm “cứu trợ xã hội” được dùng để chỉ sự cứu tế, giúp đỡ những người bị tổn thương trong xã hội nhằm bảo đảm ổn định xã hội. Khái niệm “phục vụ xã hội” được dùng để chỉ sự sắp xếp và thực hiện phúc lợi xã hội cho con người nhằm bảo đảm ổn định xã hội.
Chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân chính là tổng thể các biện pháp, quy định có tính pháp lý của Nhà nước nhằm bảo đảm thực hiện phúc lợi xã hội, và do đó, bảo đảm trạng thái ổn định xã hội và phát triển về mặt xã hội cho giai cấp này. “Bảo hiểm xã hội”, “cứu trợ xã hội” và “phục vụ xã hội”, ở mức độ khác nhau, đều có mục đích bảo đảm thực hiện phúc lợi xã hội. Phúc lợi xã hội là mục đích trực tiếp của chính sách xã hội, nhưng đó không phải là tất cả mục tiêu của chính sách xã hội, mà chỉ là tiền đề nhằm bảo đảm thực hiện ổn định và phát triển xã hội. Nếu mục tiêu của chính sách xã hội cho giai cấp công nhân là một thể thống nhất giữa phúc lợi xã hội, ổn định xã hội và phát triển xã hội, thì chính sách xã hội không thể chỉ giới hạn ở các biện pháp, quy định hay quy chế, nguyên tắc hay thể chế nói chung để tạo thành “chế độ” xã hội như ở Việt Nam vẫn hiểu, mà bao gồm cả các biện pháp, quy định nhằm bảo đảm thực hiện các khía cạnh xã hội của các chính sách kinh tế, môi trường, an ninh, quốc phòng và cả chính sách hội nhập quốc tế. Nếu chính sách xã hội cho giai cấp công nhân nhằm vào một tổng thể thống nhất các mục tiêu như vậy, thì nó không thể quá chú trọng vào bảo đảm thực hiện chỉ phúc lợi xã hội, mà không nhắm đến mục đích ổn định xã hội và phát triển xã hội; và nó cũng không thể chỉ bảo đảm thực hiện phúc lợi xã hội, ổn định xã hội, phát triển về mặt xã hội cho công nhân khu vực kinh tế nhà nước, mà lại coi nhẹ công nhân thuộc các khu vực kinh tế khác. Và nếu chính sách xã hội cho giai cấp công nhân gồm tổng thể các biện pháp, quy định có tính pháp lý của Nhà nước về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và phục vụ xã hội, thì các biện pháp, quy định của các mạng lưới này phải có mối liên hệ, thậm chí thống nhất với nhau, chứ không rời rạc như hiện nay.
Trong việc định hướng mục tiêu, cơ chế thực hiện chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân
Từ những bất cập trong nhận thức như trên, nên một mặt, trong quá trình thực hiện chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân, ở mức độ nhất định, chúng ta chưa gắn phúc lợi xã hội với bảo đảm ổn định xã hội, đặc biệt với việc bảo đảm phát triển về mặt xã hội cho giai cấp công nhân. Ví dụ, một mặt, chúng ta chưa gắn việc bảo đảm thực hiện phúc lợi xã hội cho các đối tượng công nhân có tay nghề cao, hay cho đối tượng công nhân được cứu trợ xã hội, với sự ổn định và phát triển về mặt xã hội cho giai cấp công nhân. Vì thế, chúng ta vẫn thường phải đối diện trước vấn đề về mối quan hệ giữa “con cá” và “cần câu”. Mặt khác, chúng ta vẫn chưa thực hiện được trên thực tế mục tiêu của chính sách xã hội là bảo đảm phúc lợi xã hội, ổn định và phát triển về mặt xã hội cho toàn bộ các thành viên của giai cấp công nhân, chứ không chỉ cho công nhân khu vực kinh tế nhà nước. Hiện nay, công nhân thuộc khu vực kinh tế dân doanh dường như chưa phải là đối tượng được hưởng chính sách trên lĩnh vực xã hội (chính sách xã hội theo nghĩa hẹp). Có thể nói cho đến nay, chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân chưa tạo được hệ thống bảo đảm xứng đáng đối với đội ngũ công nhân khu vực ngoài nhà nước.
Việt Nam đang ở giai đoạn thoát khỏi tình trạng kém phát triển để gia nhập các nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Đối với những nước có thu nhập trung bình, những thiết chế dân sự và yêu cầu về tính trách nhiệm của chính phủ trong việc bảo đảm, thực hiện phúc lợi xã hội, ổn định và phát triển xã hội cho các giai tầng xã hội, trong đó có giai cấp công nhân, ngày càng lớn hơn. Nói cách khác, yêu cầu bảo đảm và thực hiện chính sách xã hội một cách bình đẳng trên cả phương diện quyền phát triển và quyền thụ hưởng cho công nhân thuộc tất cả các khu vực kinh tế, cũng ngày càng lớn và được đặt ra cấp thiết hơn khi Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
Trong cơ chế phục vụ xã hội
Cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hệ thống phục vụ xã hội cũng cần được chuyển từ sự đảm nhiệm của Nhà nước sang để cả xã hội cùng gánh vác; nhưng cho đến nay vẫn còn phổ biến tình trạng các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ỷ lại vào Chính phủ, các địa phương ỷ lại vào Trung ương trong thực hiện chính sách xã hội. Hệ quả rõ nhất là việc chăm sóc, nuôi dưỡng người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, vẫn chủ yếu do Nhà nước đảm nhiệm. Trong cả nước, nhất là tại các khu công nghiệp, thiếu rất nhiều các hình thức phục vụ cộng đồng, từ việc ăn, ở, đi lại cho đến các hình thức phục vụ vui chơi giải trí công cộng. Nhận thức của xã hội về các công tác này cũng như về công tác cứu trợ xã hội quá thiên về tính chất “từ thiện”, mà chưa thấy hết công tác phục vụ xã hội là sự nghiệp lớn lao mà xã hội cần gánh vác trong hiện tại và tương lai. Nếu như chính sách xã hội nói chung và chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân nói riêng, thiết lập được cơ chế phục vụ, động viên kịp thời các địa phương, các cộng đồng xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp, thì có thể hình thành, phát triển được mạng lưới phục vụ xã hội phi lợi nhuận bên cạnh mạng lưới dịch vụ xã hội được vận hành theo cơ chế thị trường. Ví dụ, nếu Nhà nước và doanh nghiệp hợp lực xây dựng các nhà dưỡng lão, khu vui chơi giải trí cho người lao động ở các địa phương, thì sẽ rất có lợi cả về vật chất và tinh thần cho xã hội và có thể hạn chế được không ít tình trạng tiêu cực trong xã hội, đồng thời, khiến cho chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân, trở nên có ý nghĩa hơn.
Về nội dung và mục tiêu của chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân
Cần thấy rằng, nội dung của chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân là thực hiện sự bảo đảm xã hội nhằm mục tiêu: mang lại quyền lợi hay phúc lợi xã hội cho công nhân thuộc tất cả các khu vực kinh tế, trước tiên cho những công nhân dễ bị tổn thương (công nhân thương tật, mất sức lao động, công nhân nữ…). Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), thì bảo đảm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua nhiều biện pháp công cộng, nhằm phòng, chống lại những khó khăn về kinh tế - xã hội do bị ngừng và giảm về thu nhập, do bị ốm đau, thương tật, tai nạn lao động, thất nghiệp, thai sản, tuổi già, chết, đồng thời, bảo đảm chăm sóc, trợ cấp y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con, trợ cấp cho người già cô đơn, trẻ em mồ côi,… Chế độ bảo đảm xã hội cho giai cấp công nhân, thực tế là một hệ thống bảo vệ xã hội rất sâu rộng đối với tất cả các thành viên của xã hội (cả đối với công nhân bình thường, chứ không chỉ đối với công nhân dễ bị tổn thương); liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của người công nhân và tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của xã hội.
Trước tiên, nội dung cơ bản của bảo đảm xã hội cho giai cấp công nhân là bảo hiểm xã hội, và gồm: bảo hiểm nuôi dưỡng công nhân già yếu, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm sinh đẻ, bảo hiểm thúc đẩy nghề nghiệp,… Thực tế hiện nay và sau này, các hình thức bảo hiểm xã hội đó vừa mang lại lợi ích thiết thực cho người lao động công nghiệp vừa bảo đảm an toàn xã hội. Thế nhưng để hệ thống bảo hiểm xã hội đối với giai cấp công nhân vận hành có hiệu quả, cần phải tiến hành thể chế hoá, đa dạng hoá nguồn tài chính và xã hội hoá các hình thức quản lý phù hợp với mỗi dạng bảo hiểm xã hội cho công nhân.
Tiếp đó, một nội dung quan trọng của bảo đảm xã hội cho giai cấp công nhân là cứu trợ xã hội và gồm: các hình thức bảo đảm xã hội tối thiểu, cứu nạn cứu tế, giúp đỡ công nhân nghèo, trợ giúp khẩn cấp,… Chế độ cứu trợ xã hội do Chính phủ và các tổ chức xã hội cùng đảm nhiệm, một mặt, nhằm giúp đỡ những công nhân nghèo có thu nhập quá thấp, mặt khác, nhằm giúp đỡ những công nhân bị tác động của thiên tai, dịch bệnh,…ổn định cuộc sống. Muốn thực hiện tốt việc bảo đảm xã hội tối thiểu cần từng bước xây dựng các công trình cơ bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao không ngừng “chuẩn” tối thiểu của bảo đảm xã hội. Công tác cứu trợ xã hội do vậy cũng được tiến hành thuận lợi. Nhưng để công tác này hướng đúng vào đối tượng, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội cần hình thành khung cứu trợ và biện pháp cứu trợ xã hội nhằm kết hợp tốt trách nhiệm của Chính phủ và của xã hội, trước tiên là các doanh nghiệp, trong quá trình xã hội hoá công tác này.
Nội dung thứ ba của bảo đảm xã hội đối với giai cấp công nhân là chế độ phục vụ xã hội, gồm các hình thức: giúp đỡ, sắp xếp công ăn việc làm cho người nghèo, phúc lợi cho người già, người tàn tật, trẻ mồ côi; và rộng hơn, là chế độ phục vụ xã hội nhằm mang lại phúc lợi công cộng cho tất cả các thành viên xã hội trong hoạt động xã hội, kể cả trong sinh hoạt công cộng (giao tiếp, đi lại, vui chơi, giải trí). Theo tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, chế độ phục vụ xã hội ngày càng hoàn thiện có thể đáp ứng được phúc lợi xã hội cho đông đảo người lao động công nghiệp, nhất là những người dễ bị tổn thương trong giai cấp công nhân.
Ba nội dung trên tuy liên quan mật thiết với nhau, nhưng có chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Mạng lưới bảo hiểm xã hội là nhằm vừa mang lại lợi ích thiết thực vừa nhằm bảo đảm an toàn xã hội cho công nhân thuộc tất cả các khu vực kinh tế. Mạng lưới cứu trợ xã hội vừa nhằm hỗ trợ những người lao động công nghiệp đang bị tổn thương trong xã hội vừa nhằm bảo đảm ổn định cuộc sống tối thiểu trong xã hội. Mạng lưới phục vụ xã hội vừa nhằm phục vụ những người lao động công nghiệp dễ bị tổn thương trong xã hội, vừa nhằm bảo đảm phúc lợi xã hội tối thiểu cho công nhân. Về phương thức hoạt động, mạng lưới bảo hiểm xã hội chủ yếu khai thác và tạo nguồn phúc lợi trong xã hội; mạng lưới cứu trợ xã hội chủ yếu bảo đảm cuộc sống tốt hơn cho những công nhân đang bị tổn thương trong xã hội, đặc biệt những trường hợp phải cứu trợ khẩn cấp, nhưng cũng tích cực khai thác nguồn phúc lợi trong xã hội; mạng lưới phục vụ xã hội cũng vừa tổ chức phục vụ vừa khai thác nguồn phúc lợi trong xã hội. Về nguyên tắc hưởng quyền lợi, đương nhiên những công nhân tham gia bảo hiểm xã hội có quyền lợi bảo đảm hơn. Tính hợp lý của loại hình bảo đảm xã hội này và các loại hình cứu trợ, phục vụ xã hội chỉ được thể hiện rõ khi Nhà nước và các doanh nghiệp cùng gánh vác; thông qua đó, nguồn phúc lợi xã hội được khai thác triệt để và được nâng cao không ngừng; đặc biệt thông qua đó những đối tượng dễ bị tổn thương, được bảo đảm tương đối ổn định và thể hiện được tính ưu việt của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Các giải pháp bảo đảm và thực hiện chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân
Một là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các chính sách của Nhà nước
Chế độ bảo đảm xã hội luôn luôn đòi hỏi có sự giúp đỡ của Nhà nước thông qua các chính sách cụ thể. Muốn bảo đảm cho chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân được thực hiện thông qua tổng thể nền kinh tế quốc dân, thông qua tổng thể tiến trình phát triển của xã hội, muốn thu hút và đẩy mạnh sự giúp đỡ, quyên góp và tham gia của cả cộng đồng, các doanh nghiệp, rõ ràng không thể không có hành lang pháp luật, định hướng chính sách xã hội chung và không thể không lồng ghép chính sách xã hội với các chính sách kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng… Vì thế, trong quá trình thực hiện chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân, vị trí, vai trò của việc hoạch định chính sách, chủ trương, luật pháp của Nhà nước ngày càng trở nên quan trọng.
Hai là, đa dạng hoá và tăng cường hỗ trợ về tài chính
Chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân là nhằm mang lại phúc lợi xã hội cho cộng đồng những người lao động công nghiệp, mà phúc lợi xã hội thuộc phạm trù phân phối tài chính theo nghĩa rộng. Phân phối tài chính của Chính phủ theo tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ngày càng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo đảm tính hiệu lực của chính sách xã hội. Vì vậy, nguồn tài chính cho việc bảo đảm xã hội ngày càng lớn, phong phú, và các doanh nghiệp từng bước được tách khỏi chức năng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo đảm xã hội. Các doanh nghiệp thực hiện chức năng này một cách gián tiếp thông qua thuế và chuyển đổi nguồn tài chính thành nguồn phúc lợi kiểu mới, ví dụ thông qua các quỹ đầu tư xã hội, các hiệp hội phi chính phủ… Do đó, nguồn tài chính cho việc bảo đảm xã hội đối với giai cấp công nhân ngày càng trở nên đa dạng; và vai trò điều tiết, hỗ trợ về tài chính của Chính phủ cũng ngày càng trở nên cần thiết, quan trọng.
Ba là, tăng cường khai thác tiềm năng, thế mạnh của các doanh nghiệp, các địa phương
Nhìn chung các doanh nghiệp lớn, ví dụ các tập đoàn kinh tế, hay các tỉnh, thành trong cả nước đều có tiềm năng, thế mạnh riêng trong việc bảo đảm xã hội nhằm mang lại phúc lợi xã hội cho công nhân thuộc tất cả các khu vực kinh tế. Nhưng cho đến nay việc khai thác tiềm năng, thế mạnh này chưa được chú ý đúng mức. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có chính sách khai thác thế mạnh của các doanh nghiệp lớn, các địa phương để đẩy mạnh công tác tổ chức chỉ đạo của chính quyền các cấp, sự hoạt động năng động của các tổ chức xã hội tại doanh nghiệp, tại địa phương nhằm khai thác đúng và trúng tiềm năng, thế mạnh của các doanh nghiệp, các địa phương. Thông qua đó có thể giải quyết được nhiều vấn đề cấp bách của địa phương và nâng cao trình độ bảo đảm xã hội tại địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
Tóm lại, chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân là nhằm bảo đảm ổn định xã hội, phúc lợi xã hội và phát triển cho cộng đồng (hay tập đoàn) những người lao động công nghiệp; trên cơ sở đó mới có thể phát huy được vai trò của giai cấp này. Trạng thái ổn định xã hội của giai cấp này không phải là trạng thái tĩnh, mà là trạng thái động, luôn biến đổi theo tình hình thực tế. Phúc lợi xã hội đối với giai cấp công nhân, về nguyên tắc, cũng luôn biến đổi theo chiều hướng tăng lên cả về lượng và chất. Vì thế, phải luôn luôn có nhận thức mới về chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân cho phù hợp với tình hình thực tế mới; từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung, đổi mới việc xây dựng, phát triển mạng lưới bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và phục vụ xã hội cho giai cấp công nhân phù hợp với tình hình mới, và với nhu cầu mới về quyền lợi xã hội (hay phúc lợi xã hội) của giai cấp này cũng như của các tầng lớp nhân dân khác./.
Chương trình hỗ trợ đối thoại chiến lược Việt Nam - EU  (04/06/2013)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức cơ sở đảng  (04/06/2013)
Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt Nam  (04/06/2013)
Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài  (04/06/2013)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm