Trong hơn 10 năm qua, tâm lý xã hội là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến những thay đổi trong điều kiện giải quyết việc làm, phát triển nghề nghiệp và định hướng sinh kế cho người dân Đà Nẵng. Bên cạnh một số yếu tố văn hóa thể hiện tính cách đặc trưng của con người Đà Nẵng trong làm ăn kinh tế gây ảnh hưởng không ít đến năng lực phát triển sản xuất và kinh doanh của thành phố như tư tưởng muốn ăn chắc, thích ổn định, không dám phiêu lưu, ngại mạo hiểm, sợ rủi ro, không đủ nghị lực làm lại từ đầu, xa lạ với cảm giác trắng tay sau khi có rất nhiều..., còn có không ít khó khăn về mặt tâm lý tác động khá sâu sắc đến khả năng thích ứng đối với sự chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm, tự tạo việc làm của một bộ phận không nhỏ người lao động.

Trước hết phải kể đến sức ám ảnh của tâm lý trọng thầy khinh thợ và tâm lý hậu công bạc tư. Về tâm lý trọng thầy khinh thợ, theo thống kê của ngành giáo dục thành phố Đà Nẵng, hằng năm có khoảng một vạn học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, song chỉ có 53% tiếp tục học ở các bậc học (đại học: 21,9%, cao đẳng: 5,7%, trung học chuyên nghiệp: 22,2%, nghề: 3,1%); có 47% không chấp nhận học nghề mà ôn tập để năm sau thi tiếp. Tình trạng thanh niên cố thi vào đại học đến lần thứ ba, lần thứ tư khá phổ biến; nhiều em trong số này khi không thể đỗ vào trường nào mới đăng ký vào học các trường dạy nghề, tạo ra đội ngũ thất nghiệp ảo, gây lãng phí lớn cho gia đình và xã hội. Hằng năm có trên 2.000 thanh niên tốt nghiệp đại học và khoảng 3.000 thanh niên tốt nghiệp cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trong khi nhu cầu thị trường lao động đối với ứng viên tốt nghiệp từ trung học chuyên nghiệp trở lên không nhiều. Tại các phiên chợ việc làm gần đây (theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố tại Kỳ họp thứ 6, tháng 12 năm 2005 thì Đà Nẵng phấn đấu định kỳ mỗi tháng tổ chức một phiên chợ việc làm), nhu cầu tuyển thợ kỹ thuật tới 75%, tuyển lao động phổ thông gần 20% so với tổng nhu cầu tuyển dụng, trong lúc đó phần đông ứng viên đến với chợ việc làm là người đã qua đào tạo từ trung học chuyên nghiệp trở lên. Rõ ràng thị trường lao động Đà Nẵng (và có lẽ không riêng Đà Nẵng) luôn mất cân đối: "thừa vẫn thừa, thiếu vẫn thiếu". Đây là bài toán cực kỳ nan giải đối với việc giải quyết công ăn việc làm cho lao động trẻ ở đô thị hiện nay. Tất nhiên tâm lý trọng thầy khinh thợ, coi trọng bằng cấp và hư danh, thích lao động nhẹ nhàng khó có thể được khắc phục, nếu như nhận thức chung trong xã hội còn nặng về khoa cử, xem bằng cấp như là sự thành đạt, trong khi không ít người có bằng cấp mà không được hoặc chịu làm đúng nghề đã học, thậm chí không tìm được việc làm[1]. Cũng cần nói thêm là, mặc dầu có tâm lý trọng thầy khinh thợ nhưng không ít người vẫn chưa thật sự coi trọng những người quản lý giỏi, chưa thật sự xem quản lý là một nghề, chưa nhận thức đầy đủ về quan niệm một người lo hơn kho người làm của ông cha xưa.

Tâm lý hậu công bạc tư là người lao động chỉ thích vào làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước bởi cho rằng như thế mới ổn định, "chắc chân" cho đến cuối đời - thời gian gần đây đã chuyển biến theo hướng tích cực. Nguyên nhân chủ yếu là do khu vực công ngày càng trở thành khung cửa hẹp trong khi khu vực tư nhân đang phát triển mạnh và có khả năng thu hút nhiều lao động. Nguyên nhân khác là do Đảng có chủ trương xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong loại hình doanh nghiệp tư nhân. Chủ trương đúng đắn này không chỉ nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong phát triển kinh tế tư nhân mà còn tạo điều kiện để tuổi trẻ ngày nay có thể mang hết sở học và hoài bão của mình cống hiến cho xã hội, đóng góp cho sự nghiệp của Đảng mà không nhất thiết phải đi theo con đường độc đạo là chen chân vào khu vực công. Bây giờ, phấn đấu ở bất kỳ môi trường nào, công hay tư, nếu thực sự có tài đức, mọi thanh niên đều bình đẳng trong quá trình trưởng thành và tiến bộ. Tuy vậy, nhìn chung tâm lý hậu công bạc tư vẫn đang còn ám ảnh khá nặng nề và khá dài lâu, tác động tiêu cực không chỉ đối với vấn đề giải quyết việc làm, phát triển nghề nghiệp và định hướng sinh kế cho người dân mà còn đối với sự phát triển của bản thân nền kinh tế thành phố - yếu tố quyết định nhất để giải quyết việc làm, phát triển nghề nghiệp và định hướng sinh kế một cách cơ bản.
 
Không phải ngẫu nhiên Báo cáo Chính trị trình Đại hội X của Đảng có đoạn: "Xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm"[2]. Trong các rào cản cần xóa bỏ ở đây, có rào cản về tâm lý xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân vốn đã hình thành và tồn tại suốt mấy thập niên làm kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung.

Một tâm lý mang tính tiêu cực và đang có sự ảnh hưởng lớn nữa là tâm lý không sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của các công việc mới. Tâm lý này có thể có nguồn gốc từ một trong những tính cách đặc trưng nêu trên là tư tưởng thích ổn định, không dám phiêu lưu, ngại mạo hiểm, cho nên mặc dầu trong xu thế chung của nền kinh tế thị trường hiện nay, tâm lý đứng núi này trông núi nọ không những không bị lên án như trước mà thậm chí còn được xem là biểu hiện của sự năng động, người Đà Nẵng vẫn không mặn mà với vấn đề thay đổi công việc đang làm, càng không muốn thay đổi nơi làm việc, từ đó dẫn đến tâm lý không sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của các công việc mới. Nguyên nhân khác là nhiều người Đà Nẵng hiện nay vẫn chưa có nhu cầu học tập thường xuyên, tự bằng lòng, thỏa mãn với sở học vốn có của mình, không thấy thời đại đã chuyển động đến mức dẫu giỏi giang đến mấy cũng không ai có thể học một lần để làm một đời.

Về sự biến đổi tâm lý xã hội liên quan đến tình trạng không tìm được việc làm, có thể dễ nhận ra tâm trạng thiếu hưng phấn trong cuộc sống thường nhật, thiếu niềm tin vào sự công bằng trong cơ hội tìm việc làm... Đối tượng nhạy cảm nhất ở đây là số sinh viên mới tốt nghiệp đại học cũng như số thanh niên vừa hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về. Hệ quả của sự biến đổi tâm lý xã hội vừa nêu là tình trạng an phận của những người buộc phải chấp nhận làm một công việc nào đó hoàn toàn xa lạ với chuyên môn được đào tạo, chấp nhận đồng lương còm cõi không đủ nuôi sống bản thân... Tình trạng an phận này còn phổ biến và sâu sắc hơn ở các khu công nghiệp. Nghiên cứu về thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi của người lao động tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố thời gian vừa qua, có thể thấy, phần lớn các doanh nghiệp chấp hành giờ làm việc theo quy định về pháp luật lao động, nhưng cũng không ít doanh nghiệp, trong từng thời điểm cụ thể đã vi phạm pháp luật. Không ít doanh nghiệp huy động người lao động làm thêm giờ, tăng ca quá quy định nhằm làm cho người lao động không có đủ thời gian cần thiết để tái tạo sức lao động, đó là chưa nói đến vui chơi giải trí và sinh hoạt cần thiết khác. Điều đáng nói là mặc dù một bộ phận người lao động không tự nguyện song sợ không được hoặc không được tiếp tục ký kết hợp đồng lao động, sợ mất việc, sợ bị sa thải nên đành phải chấp hành, nhất là đối với người lao động không có trình độ tay nghề, có ít cơ hội tìm việc làm khác[3].

Việc thay đổi tâm lý mang tính cá nhân của một người đã rất khó đoán định, giải quyết, huống chi thay đổi tâm lý mang tính xã hội của một cộng đồng. Tuy nhiên khi nhận diện rõ những rào cản thậm chí lực cản về tâm lý xã hội làm ảnh hưởng đến sự phát triển, vẫn có thể tìm ra giải pháp để khắc phục. Lâu nay, mọi người đều thấy việc đào tạo nghề là bất cập, nhiều người học nghề ra trường không tìm được việc làm đúng với nghề đã học, nói khác đi họ chỉ được học cái nhà trường có, chứ không được học cái xã hội cần. Như vậy có nghĩa là nguyên nhân chủ yếu thuộc về phía đào tạo, đòi hỏi phải có sự thay đổi: nhà trường phải đào tạo những gì xã hội cần và với một chất lượng đào tạo đủ để được xã hội chấp nhận. Đây là một vấn đề cần phải có một cách nhìn toàn diện mang tính xã hội, được phối hợp từ nhiều phía, trong đó nên chú ý tăng cường trách nhiệm từ phía người sử dụng lao động. Điều này, cũng có nghĩa là đào tạo nghề phải gắn với sự phát triển của sản xuất, người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng góp một phần kinh phí cho công tác đào tạo để tránh tình trạng "săn" tay nghề theo kiểu tự nhiên vì không phải tốn kém chi phí. Mặt khác, cần có giải pháp mang tính ràng buộc pháp lý nhằm hạn chế tâm lý sử dụng lao động không phù hợp vượt quá giới hạn về khả năng chuyên môn chủ yếu là để giải quyết việc làm chứ không phải vì côngviệc.

[1] Nguồn: Theo Báo cáo giữa tháng 5 năm 2006 của Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng

[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 86-87

[3] Nguồn: Theo Báo cáo giữa tháng 10 năm 2004 của Văn phòng Thành ủy Đà Nẵng