Phát triển làng nghề và vấn đề bảo vệ môi trường, trước hết là nước sạch
TCCS - Phát triển làng nghề là một mục tiêu quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Song ở nhiều nơi, làng nghề càng phát triển thì tình trạng ô nhiễm môi trường càng trở nên bức xúc. Phát triển làng nghề theo hướng tập trung, chuyên môn hóa để xử lý chất thải một cách hiệu quả là hướng đi đúng đắn nhằm giải quyết vấn đề này, bảo đảm cho một sự phát triển bền vững các làng nghề ở nước ta hiện nay.
Phát triển làng nghề - hướng đi tích cực của nông nghiệp và nông thôn Việt Nam
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn diễn ra cơ bản theo hướng làm cho nông nghiệp phát triển trên cơ sở những phương thức lao động tiên tiến và hiện đại, năng suất lao động tăng nhanh, giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích cũng như năng suất lao động cao. Bởi vậy, với một lượng lao động ít cũng có thể sản xuất ra một lượng hàng hóa nông sản ngày một tăng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu xã hội và xuất khẩu. Như vậy, có hai chỉ số không thể không thay đổi một cách mạnh mẽ, đó là diện tích đất canh tác trên một hộ gia đình sản xuất nông nghiệp tăng và số người lao động tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp giảm đi.
Trong xu hướng đó phát triển công nghiệp và dịch vụ phải đủ sức để tốc độ thu hút dần số lao động từ nông nghiệp phải cùng nhịp với số lao động từ nông nghiệp chuyển dịch ra các ngành phi nông nghiệp. Chỉ lệch pha một chút trong quá trình này cũng đã đủ để có thể gây hậu quả lớn về mặt xã hội, đó là tình trạng vừa thiếu lại vừa thừa sức lao động trong nền kinh tế quốc dân, gây lãng phí và tạo ra nhiều vấn đề xã hội cần phải giải quyết.
Hiện nay, về cơ bản đã có sự thống nhất chung về khái niệm làng nghề: làng nghề là làng ở nông thôn thì phải gắn với hoạt động nông nghiệp, nhưng hoạt động của các nghề phi nông nghiệp đang mạnh lên và tạo thu nhập ngày càng tăng. Tuy đã có rất nhiều làng có nghề như vậy, nhưng có một số quan điểm cho rằng nên sử dụng chuẩn chung là làng có ít nhất 30% so với tổng số hộ và lao động ở làng nghề, hoặc có ít nhất 300 lao động, nhưng đóng góp ít nhất 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng, hoặc doanh thu hằng năm từ ngành nghề ít nhất 300 triệu đồng.
Với tính chất như vậy, làng nghề phát triển sẽ tạo ra nhiều lợi thế trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nhất là cơ cấu lao động. Phát triển làng nghề là một hướng đi phù hợp nhằm giải quyết lao động dôi dư trong nông nghiệp, nông thôn mà không tạo ra căng thẳng về tình trạng di cư ồ ạt vào các thành phố lớn tìm việc làm, trên cơ sở thực hiện: “Rời ruộng - không rời làng”. Làng nghề lại là nơi có nhiều lợi thế trong việc khai thác thị trường tại chỗ về công cụ sản xuất, hàng tiêu dùng, nhất là góp phần trực tiếp vào việc cải thiện phương tiện lao động tại các địa phương. Như vậy, phát triển làng nghề không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, các làng, xã có nghề, mà còn có ý nghĩa đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn.
Làng nghề trước vấn đề kiểm soát phát thải và xử lý môi trường
Bên cạnh sự phát triển của các làng nghề làm cho bộ mặt nông thôn đổi mới, nhưng hiện tượng ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi đã đến mức báo động. Nhiều địa phương, sau một thời gian làng nghề phát triển mạnh, thì nay đang đối mặt với vấn đề bức xúc về môi trường do lượng phát thải từ quá trình sản xuất trong các làng nghề chưa được kiểm soát và xử lý một cách khoa học và triệt để. Thực trạng ô nhiễm trong các làng nghề nhiều nơi rất nghiêm trọng tới mức có ý kiến cho rằng, làng nghề càng phát triển thì nguy cơ ô nhiễm và suy thoái môi trường càng cao.
Một số nghiên cứu đã đưa ra mấy số liệu tiêu biểu rằng, ở các làng tái chế kim loại, các khí độc hại từ các lò đúc nhôm, chì không qua xử lý đã làm ô nhiễm môi trường không khí. Chẳng hạn, ở làng đúc đồng tại Hưng Yên, có nồng độ chì trong không khí vượt quá 2.600 lần tiêu chuẩn cho phép. Các làng nghề dệt, giấy, chế biến lương thực, thực phẩm nước thải trực tiếp xuống ao, hồ, mương, máng đã làm ô nhiễm trầm trọng môi trường nước. Làng nghề thuộc da, làm miến dong, tinh bột sắn... cứ 1 tấn cần khoảng 100 đến 150 m3 nước, khi thải ra lẫn tinh bột, da, mỡ làm cho nước nhanh bị hôi thối. Đối với môi trường đất thì các làng nghề có sử dụng hóa chất, kim loại nặng, các chất thải rắn và lỏng dần dần ngấm sâu xuống lòng đất. Đó là chưa kể nhiều làng nghề gây ra tiếng ồn và bụi quá mức cho phép. Tại Hà Nội, có tới khoảng 60% số xã bị ô nhiễm nặng từ các hoạt động sản xuất.
Kết quả một số nghiên cứu cho thấy: 100% mẫu nước thải ở các làng nghề có thông số vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Nước mặt, nước ngầm ở mức độ khác nhau đều có dấu hiệu ô nhiễm. Môi trường khí bị ô nhiễm tại nơi trực tiếp sản xuất, đặc biệt ô nhiễm bụi vượt quá tiêu chuẩn cho phép, do việc sử dụng than đá, than củi... Nhiều dòng sông có nhiều làng nghề sản xuất, như sông Nhuệ, sông Vân Tràng... bị ô nhiễm. Có những cánh đồng lúa gần các lò nung gạch, vôi lúa bị chết, nhiều cánh đồng khác cây trồng bị giảm năng suất.
Do môi trường bị ô nhiễm và lao động không có dụng cụ bảo hiểm, sinh hoạt hàng ngày chung với môi trường sản xuất nên tình hình sức khỏe của người dân làng nghề bị ảnh hưởng, nhiều bệnh tật và tai nạn lao động đã xảy ra. So với làng thuần nông, các bệnh về hô hấp, đau mắt, đường ruột, bệnh ngoài da... của người dân ở những làng có nghề phát triển thường cao hơn, đó là chưa kể các bệnh nguy hiểm như ung thư, nhiễm độc kim loại nặng,...
Thử đi tìm nguyên nhân và giải pháp
Đi sâu phân tích thì thấy, thực trạng này do các nguyên nhân, nhưng trong đó đáng kể nhất là công nghệ - kỹ thuật. Chẳng hạn, công nghệ thủ công và tình trạng lạc hậu, chắp vá về công nghệ, kỹ thuật sản xuất đang làm cho lượng phát thải quá nhiều trên một đơn vị sản phẩm quá cao so với các công nghệ tiên tiến và hiện đại. ở Hưng Yên có 30 làng nghề thì 60% là sản xuất hoàn toàn thủ công, chỉ có gần 37% có trang bị nửa cơ khí, song hầu hết là sản xuất tại gia đình. Nếu thử ước tính cho số làng nghề cả nước là khoảng trên dưới 2.000 làng nghề, thì mỗi năm sản xuất, chế biến cần hàng trăm ngàn tấn nguyên liệu, nhiên liệu, phế liệu từ đó đổ ra hàng ngàn tấn chất thải đủ loại không được xử lý.
Nhưng do thiếu vốn đầu tư, sản xuất tận dụng và cũng phần nhiều do tập quán sản xuất nhỏ làm cho công nghệ tiên tiến hiện đại chưa thâm nhập được vào các làng nghề. Ngoài ra, các nguyên nhân về tổ chức, quản lý đối với phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường ở các làng nghề cũng có một ý nghĩa rất lớn. Phát thải ra môi trường chung, môi trường công cộng, vậy thì không thể hạn chế nạn xâm hại môi trường nếu thiếu một sự giám sát đồng bộ của cộng đồng - đối tượng chịu tác động tiêu cực trực tiếp của mọi sự ô nhiễm về môi trường. Các nguyên nhân bắt nguồn từ nhận thức, ý thức, trách nhiệm và hành vị ứng xử của chính người dân trong các cộng đồng dân cư của các làng nghề.
Do đó, cần có những biện pháp để khắc phục và tránh những hậu quả lớn về môi trường trong các làng nghề là vừa góp phần bảo vệ môi trường sống, đồng thời bảo đảm để làng nghề phát triển bền vững là một vấn đề cấp thiết hiện nay.
Một là, nên phát triển làng nghề theo hướng tập trung và chuyên môn hóa để xử lý chất thải một cách hiệu quả.
Các làng nghề có thể được phân loại theo nhóm sản phẩm, như: chế biến lương thực, thực phẩm, dược liệu; chế biến đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ; dệt nhuộm, da giầy; vật liệu xây dựng; tái chế chất thải... Nhiều làng nghề cổ truyền đã nổi tiếng từ hàng trăm năm nay như: lụa Vạn Phúc, gốm - sứ Bát Tràng, đồ gỗ Đồng Kỵ, rượu làng Vân, tranh Đông Hồ, gốm Vân Canh, dệt Phương La... đã đi theo hướng chuyên môn hóa và tập trung hóa. Như vậy, chất thải sẽ mang tính đồng nhất và có thể đầu tư tìm kiếm những công nghệ xử lý chất thải một cách tập trung sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn, chất thải từ chế tạo tinh bột sắn, miến dong riềng... hoàn toàn có thể được kiểm soát nếu xây dựng hệ thống dãy các hồ chứa để xử lý trước khi nước được hòa vào hệ thống sông chung.
Hai là, đề cao vai trò giám sát và điều hành chung của chính quyền cấp cơ sở, nhất là cấp xã.
Làng nghề ở nước ta phần lớn tổ chức theo hộ gia đình; truyền nghề theo kiểu kèm cặp, lao động thủ công là chính không được trang bị về kiến thức môi trường và an toàn lao động; sản xuất, chế biến thường ở nơi cùng gia đình sinh hoạt. Bởi vậy, chính quyền cấp xã nên xây dựng “Quy chế giám sát và Bảo vệ môi trường” cấp cơ sở(1). Kinh nghiệm những địa phương làm tốt công tác bảo vệ môi trường các làng nghề cho thấy, đối với làng nghề nên lấy cấp xã là nòng cốt trong hệ thống quản lý môi trường. Quy chế bảo vệ môi trường ở các cấp chính quyền cơ sở hoàn toàn có thể lấy hương ước làng xã làm công cụ quản lý môi trường. Chính nhờ hương ước cộng với sự hướng dẫn của cơ quan quản lý môi trường về những thông số cơ bản và quan trắc định kỵ. Trên cơ sở đó người dân thống nhất nêu ra những điều cần cam kết và thực hiện để bảo đảm làng nghề phát triển bền vững.
Ba là, các địa phương nên sớm xây dựng quy hoạch một cách công khai, có cơ sở khoa học về các cụm công nghiệp, nhất là cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Ngoài tính ưu việt của sự tập trung và chuyên môn hóa, quy hoạch cụm công nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển nghề trong nông thôn có tác dụng đưa được sản xuất ra khỏi khu vực sinh sống. Trên thực tế, nhiều địa phương đã hình thành các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, đưa các hộ sản xuất, kinh doanh ra khỏi khu vực dân cư. Tỉnh Bắc Ninh đã xây dựng khu quy hoạch cho làng giấy Phong Khê, làng đúc đồng Đại Bái, làng đồ gỗ Đồng Kỵ rộng hàng chục héc-ta. Những giải pháp này đang bước đầu có hiệu quả, tạo điều kiện cho các làng nghề vừa phát triển vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Bốn là, Nhà nước nên có chương trình cụ thể tài trợ cho việc nghiên cứu để có những công nghệ rẻ, phù hợp với từng loại làng nghề, đồng thời hỗ trợ hiệu quả cho các làng nghề ứng dụng công nghệ xử lý môi trường.
Một số suy nghĩ về mối quan hệ tôn giáo với dân tộc ở nước ta hiện nay  (19/09/2009)
Thông tin cơ bản về nước Cộng hòa Hung-ga-ri và quan hệ với Việt Nam  (18/09/2009)
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Cộng hòa Hung-ga-ri  (18/09/2009)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm