Các khu công nghiệp ở Việt Nam: Hướng tới sự phát triển bền vững

TS. Phạm Thanh Hà Nguồn: Báo Nhân dân Điện tử
14:14, ngày 21-07-2011
Những chuyển biến, khởi sắc và thành công của nền kinh tế - xã hội nước ta trong công cuộc đổi mới, mở cửa 25 năm qua có dấu ấn đậm nét của việc hình thành, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế (trong bài viết này gọi chung là khu công nghiệp - KCN). Ðây thật sự là một động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì thế, phát triển bền vững các KCN sẽ góp phần vào chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.

KCN - Ðộng lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Chúng ta biết rằng, trở thành một nước công nghiệp đòi hỏi phải có một nền công nghiệp phát triển ở trình độ cao cả về năng lực sản xuất, trình độ kỹ thuật công nghệ, hình thức tổ chức sản xuất... Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước và từ thực tiễn phát triển của Việt Nam cho thấy, tổ chức sản xuất công nghiệp tập trung tại các KCN đã thật sự mang lại nhiều hiệu quả to lớn không chỉ riêng cho sự phát triển của ngành công nghiệp, mà còn đổi mới cả nền kinh tế - xã hội ở một quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với sự hình thành và phát triển của các KCN.

Năm 1991, khu chế xuất Tân Thuận được thành lập “khai sinh” ra mô hình các KCN trong chiến lược xây dựng phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Từ đó đến nay với nhiều cơ chế, chính sách liên quan đến việc thành lập, hoạt động của các KCN được ban hành, điều chỉnh đã tạo ra hành lang pháp lý cho sự ra đời và phát triển các KCN trên địa bàn cả nước. Tính đến nay (năm 2010), Việt Nam đã có 250 KCN được thành lập, trong đó có 170 KCN (chiếm 68% tổng số KCN của cả nước) đã đi vào hoạt động, số còn lại đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện. Các KCN chủ yếu được thành lập ở ba vùng kinh tế trọng điểm (vùng kinh tế trọng điểm phía bắc; vùng kinh tế trọng điểm phía nam; vùng kinh tế trọng điểm miền trung), song cho đến nay cả nước có 57 tỉnh, thành phố có KCN được thành lập.

Hiện nay, các KCN đã thu hút được 8.500 dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn đăng ký khoảng 70 tỉ USD, trong đó vốn đầu tư nước ngoài hơn 52 tỉ (chiếm 30% FDI cả nước), còn lại là vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Nếu tính về giá trị sản xuất công nghiệp, các KCN hiện nay đã đóng góp hơn 30% giá trị công nghiệp của cả nước đã tạo việc làm cho hơn 1,5 triệu lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp. Ngoài ra, các KCN phát triển đã kéo theo sự đầu tư về cơ sở hạ tầng (điện, đường, nước...). Những kết quả này cho thấy vai trò quan trọng của KCN góp phần cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ðó là thúc đẩy sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu; thu hút vốn đầu tư; nộp ngân sách Nhà nước; tạo công ăn việc làm cho người lao động; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nâng trình độ công nghệ sản xuất; tạo sản phẩm có sức cạnh tranh, v.v. Như vậy, các KCN thật sự là một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Những bất cập và giải pháp tháo gỡ

Sự phát triển mạnh mẽ và những đóng góp to lớn của các KCN là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, quá trình phát triển các KCN Việt Nam trong thời gian qua còn tồn tại không ít những thách thức, bất cập, như: vấn đề quy hoạch tổng thể còn yếu, dẫn đến phát triển KCN mang tính "phong trào", không ít các KCN gặp khó khăn trong việc thu hút các doanh nghiệp đến đầu tư; cơ chế quản lý và hoạt động hành chính đối với KCN chưa thật sự hiệu quả; nguồn nhân lực cho KCN chưa đáp ứng kịp, nhất là lao động kỹ thuật; một số chính sách của Nhà nước cũng có tác động nhất định đến các KCN; tình trạng ô nhiễm môi trường trong nhiều KCN đang gây bức xúc trong dư luận; nhiều KCN gặp khó khăn trong xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở do mức hỗ trợ vốn ngân sách từ Trung ương còn thấp; việc cấp các loại giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong các KCN còn nhiều vướng mắc; thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng ở trong hàng rào và ngoài hàng rào KCN, v.v.

Những bất cập trên nếu không được tháo gỡ nhanh chóng sẽ làm cản trở đến chiến lược phát triển KCN ở Việt Nam. Ðể các KCN phát triển đúng hướng, hiệu quả, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, trước hết không để kéo dài tình trạng phát triển các KCN quá “nóng” mang tính “phong trào”. Việc quy hoạch thành lập các KCN đòi hỏi phải bảo đảm những điều kiện nhất định, như địa điểm, hạ tầng cơ sở, xu hướng phát triển kinh tế trong vùng, khả năng cung lao động; Vị trí của các KCN phải gắn với thị trường tiêu thụ, thị trường cung ứng nguyên vật liệu, đáp ứng các dịch vụ phục vụ sản xuất và dịch vụ đời sống; Về nguồn nhân lực, các địa phương phải có kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao tay nghề cho người lao động. Nhà nước phải có cơ chế giúp đỡ các địa phương, doanh nghiệp phát triển nguồn nhân lực, tránh không để tình trạng các doanh nghiệp phải tự mình lo việc đào tạo nguồn lao động.

Bên cạnh đó, việc phân cấp, ủy quyền để các ban quản lý KCN có thể triển khai thủ tục hành chính đầy đủ theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” cần tiếp tục được đẩy mạnh và có những điều chỉnh cho thích hợp hơn; chính sách ưu đãi đầu tư và thuế thu nhập cho các doanh nghiệp đầu tư vào KCN thuộc địa bàn khó khăn cần phải nhất quán, rõ ràng để thu hút và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư; kết hợp tốt việc “lấp đầy” diện tích các KCN với việc nâng cao chất lượng các dự án đầu tư vào KCN bằng cách khuyến khích, ưu đãi cho các dự án tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh và phát triển bền vững; xây dựng đồng bộ hạ tầng trong và ngoài KCN, đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động làm việc tại các KCN,... sẽ còn không ít những khó khăn, song trên cơ sở những gì các KCN đã đạt được, cùng việc thực hiện đồng bộ, quyết liệt một hệ thống các giải pháp tháo gỡ những bất cập hiện nay, chắc chắn các KCN ở Việt Nam sẽ phát triển bền vững, thật sự là nền tảng và động lực to lớn góp phần đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công và về đích đúng thời gian./.