Một góc Ốc-lan

TCCSĐT - Sau khoảng 20 giờ bay, chúng tôi đã đi từ mùa hạ nắng nóng, oi ả của Việt Nam sang mùa đông gió, lạnh của Niu Di-lân - đất nước nằm ở Nam bán cầu, cách Ô-xtrây-li-a khoảng 2000 km về phía Nam. Những bụi hoa dại, những khóm hoa trà nhiều sắc màu nở rực rỡ, lá vàng rụng dưới đường và bầu trời cao, xanh trong thăm thẳm làm cho mùa đông của xứ sở Ki-uy (Kiwi) này dường như vơi đi cái giá lạnh.

Theo cách gọi của người Mao-ri - những người thổ dân đầu tiên đặt chân lên hòn đảo này, “Niu Di-lân” là một cái tên rất đẹp: “Vùng đất của dải mây trắng”. “Dải mây trắng” khổng lồ này gồm có hai đảo chính là đảo Bắc, đảo Nam và một số đảo nhỏ khác với tổng diện tích khoảng 270.500 km2. Niu Di-lân có bờ biển dài với nhiều hải cảng và bãi biển đẹp, thế nhưng do nằm giữa Thái Bình Dương nên đất nước này, đặc biệt là đảo Nam, phải chịu nhiều trận động đất ở các mức độ khác nhau, cùng với những trận gió mạnh, dữ dội, nhất là vào ban đêm.

Dân số của Niu Di-lân khoảng 4 triệu người, trong đó 74,5% là người châu Âu, người Mao-ri chỉ chiếm khoảng 15%. Đa số người dân sống tại các thành phố, thành phố lớn nhất là Ốc-lan (Auckland), tiếp đó là thủ đô Oe-linh-tơn (Wellington)...

Yên tĩnh, sạch và thanh bình, là cảm nhận đầu tiên khi chúng tôi đặt chân đến Ốc-lan (Auckland) - thành phố nằm ở phía bắc của đảo Bắc và được coi là náo nhiệt nhất, có nhiều người nước ngoài tới học tập, làm việc và sinh sống nhất của Niu Di-lân.

Những tòa nhà cao tầng hầu như chỉ có trong trung tâm, dọc theo một số phố lớn. Sau khoảng 20 phút đi bộ ra khỏi khu vực trung tâm, người ta sẽ thấy hiện lên một bức tranh khác về thành phố. Đường phố nhỏ, vắng, sạch, rất nhiều cây và các loại hoa nở rực rỡ hai bên đường. Hoa của xứ sở nhiệt đới xen với các loài hoa đặc trưng của xứ lạnh. Người dân thường sống trong những ngôi nhà hai tầng, hơi giống kiểu nhà sàn, giữa khuôn viên rộng với những hàng rào gỗ thấp bao quanh.

Niu Di-lân được đánh giá là đất nước rất quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Chi phí cho việc giữ gìn và bảo vệ môi trường, chẳng hạn như khoản chi cho việc sử dụng nước sạch và thải nước sinh hoạt không phải là nhỏ đối với người dân. Khối lượng nước thải được tính dựa trên lượng nước sạch tiêu thụ. Vì thế, việc sử dụng tiết kiệm nước sạch sẽ giảm được khoản chi cho cả hai loại nước này. Tại một số cửa hàng, khách hàng còn phải trả tiền túi ny-lông đựng hàng nhằm mục đích hạn chế việc sử dụng túi ny-lông, với lời nhắc nhở ghi trên hóa đơn thanh toán: “hạn chế sử dụng, tái sử dụng, tái chế”.

Sự ồn ào, vội vã, khẩn trương của thành phố thường bắt đầu từ 6 đến 7 giờ sáng và kéo dài đến khoảng 8 giờ tối. Các cửa hàng mở cửa tất cả 7 ngày trong tuần, chỉ đóng cửa sớm hơn vào những ngày nghỉ. Vào 9-10 giờ tối, đường phố đã vắng vẻ và sau 10 giờ, trên đường phố còn rất ít người đi lại.

Lịch sự, nguyên tắc và sòng phẳng là những điểm dễ cảm nhận khi tiếp xúc với người dân của đất nước này. Các quyền lợi cũng như nghĩa vụ cơ bản của một người khi đến sống, du lịch hoặc học tập tại đây được tóm lược và in thành các cuốn sách chỉ dẫn nhỏ, các tờ rơi để mọi người có thể tìm hiểu dễ dàng... Luật lệ và các nguyên tắc là điều quan trọng mà bất cứ ai cũng buộc phải quan tâm và tuân thủ một cách tự giác bởi mức phạt rất nặng. Hầu như mọi người đều thuộc những nguyên tắc tối thiểu phải thực hiện trong cuộc sống hằng ngày và mức phạt kèm theo, hay mức chi phí phải trả nếu vi phạm.

Mặc dù có một mức sống khá cao (thu nhập bình quân đầu người khoảng trên 30.000 USD/năm), nhưng sự tiết kiệm được thực hiện rất khắt khe. Tinh thần tiết kiệm đó một phần do ý thức của người dân, một phần do giá cả đắt đỏ, còn phần khác, rất quan trọng, là do cách quản lý chặt chẽ thông qua việc áp dụng một cách đồng bộ công nghệ thông tin.

Nông nghiệp là thế mạnh của Niu Di-lân. Niu Di-lân có cơ sở kinh tế nông - công nghiệp phát triển, trong đó chăn nuôi giữ vai trò quan trọng. Cả đất nước Niu Di-lân có khoảng 40 triệu con cừu. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm 4,7%; công nghiệp: 27,8%; dịch vụ: 67,6%. Nền kinh tế Niu Di-lân chủ yếu dựa vào thương mại, xuất nhập khẩu hàng hoá. Hằng năm, 3/4 sản phẩm nông nghiệp dùng để xuất khẩu. Lương thực, thực phẩm của Niu Di-lân được đánh giá là có độ an toàn cao và được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) xếp hạng cao về khả năng cạnh tranh.

Các sản phẩm nông nghiệp cũng là những mặt hàng chủ lực trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Niu Di-lân. Niu Di-lân xuất sang Việt Nam các sản phẩm chủ yếu là sữa bột, gỗ, nguyên vật liệu dệt may, sắt thép...và nhập khẩu từ Việt Nam đồ gỗ, hạt điều, hải sản, giày dép, cà phê... Kim ngạch thương mại hai chiều trong 5 tháng đầu năm 2009 mới chỉ dừng lại ở mức trên 100 triệu USD.

Tuy nhiên, việc ký kết Hiệp định Tự do thương mại ASEAN - Ô-xtrây-li-a - Niu Di-lân (AANZFTA) ngày 27-2-2009, được coi là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động thương mại, đầu tư giữa các quốc gia trong khối, trong đó có quan hệ song phương Việt Nam - Niu Di-lân phát triển mạnh mẽ. Các nhà đầu tư của Niu Di-lân cho rằng, Hiệp định này sẽ mở ra nhiều cơ hội mới trong việc đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

Cảng Ốc-lan

Theo Hiệp định này, đến năm 2018, ASEAN, Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân cam kết xoá bỏ thuế quan với ít nhất 90% số dòng thuế. Các bên cũng cam kết thiết lập cơ chế hợp tác chặt chẽ nhằm đảm bảo các biện pháp phi thuế. AANZFTA sẽ tạo ra một khối thương mại với tổng dân số trên 600 triệu người và GDP ước tính khoảng 2,7 ngàn tỉ USD/năm.

Không chỉ dừng lại trên lĩnh vực thương mại, trong giáo dục - đào tạo, mối quan hệ hợp tác, liên kết đào tạo giữa một số trường đại học của Niu Di-lân như Đại học Víc-to-ri-a, Đại học Công nghệ Auckland (AUT) với một số trường đại học của Việt Nam như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quy Nhơn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã được thiết lập. Đây là một hướng hợp tác hiệu quả và được đánh giá là có triển vọng phát triển trong thời gian tới.

Tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam

Trong một buổi gặp gỡ giữa những nhà đầu tư Niu Di-lân đã đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam và những người đang tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Việt Nam vào tháng 8 vừa qua, nhiều nhận định khá khả quan về triển vọng kinh tế và môi trường đầu tư tại Việt Nam đã được đưa ra, chẳng hạn như những đánh giá của Ngân hàng Thế giới tại Hà Nội, đánh giá của HSBC về triển vọng phục hồi của kinh tế Việt Nam; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, trong đó một chỉ số được đặc biệt quan tâm là khu vực công nghiệp đã đạt tốc độ tăng trưởng 6,8% vào tháng 5 và 8,2% vào tháng 6, sau 4 tháng liên tục tăng trưởng âm; những tín hiệu tốt đẹp về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thể hiện ở sự đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư từ kết cấu hạ tầng, công nghệ, đến chế biến thực phẩm, chế biến hải sản và lĩnh vực nông - lâm nghiệp; các biện pháp của Chính phủ để kích thích nền kinh tế, giải quyết việc làm; quan hệ thương mại song phương truyền thống... Các lĩnh vực như xây dựng, hàng không, giáo dục, nông nghiệp, công nghệ biển và du lịch là những lĩnh vực được các nhà đầu tư ở Niu Di-lân đánh giá là có cơ hội và triển vọng tốt khi đầu tư tại Việt Nam./.