Giải quyết tốt các mối quan hệ trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay
TCCSĐT - Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã ra đời và đi vào cuộc sống mà điểm nhấn chính là Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn(1).
Có thể nói, từ chính sách đúng đắn và kịp thời này đã làm cho “tam nông” gặt hái được những thành tựu: đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận người dân nông thôn từng bước được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn giảm nhanh, một bộ phận không nhỏ nông dân đã vươn lên khá giả và giàu có; cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng phần đóng góp của công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề chuyên môn, nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn không ngừng được tăng cường; bộ mặt nông thôn Việt Nam ngày càng thay đổi tích cực; mức sống người dân nông thôn từng bước được cải thiện; sự phát triển của thành thị và nông thôn trở nên cân đối, hài hòa hơn.
Sau 3 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, thực tiễn của nhiều địa phương và các vùng trong cả nước cho thấy, vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập. Đó là, tiến độ triển khai còn chậm so với chỉ tiêu đặt ra (đến nay mới có khoảng 2% số xã đạt chuẩn nông thôn mới)(2); trong thực hiện các nội dung về phát triển nông thôn mới chủ yếu tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng mà chưa chú trọng đến vấn đề cải thiện thu nhập, phát triển văn hóa, cải thiện môi trường nông thôn; chưa có chính sách hỗ trợ các địa phương có xuất phát điểm thấp và điều kiện kinh tế khó khăn và đồng thời cũng tạo nên sự mất cân bằng trong xây dựng và phát triển nông thôn,…
Nguyên nhân những tồn tại, hạn chế nêu trên có thể có nhiều nhưng ở một khía cạnh nào đó mà nói, cán bộ lãnh đạo (trực tiếp hoặc gián tiếp) ở nhiều địa phương chưa hoàn toàn nắm bắt và thấu hiểu hết được vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng cũng như nắm bắt, xử lý những mối quan hệ tồn tại và nảy sinh khi tiến hành thực thi Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Để đẩy mạnh tiến trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay, thiết nghĩ, cần giải quyết tốt các mối quan hệ sau:
Một là, quan hệ giữa Nhà nước, các lực lượng xã hội và chủ thể nông dân. Cần phải khẳng định rằng, xây dựng nông thôn mới phụ thuộc rất lớn vào quyết tâm chính trị, sự chỉ đạo, định hướng của Đảng và Nhà nước về mặt chính sách, tài chính.
Trong tiến trình xây dựng nông thôn mới, chủ thể lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện là các cấp ủy đảng, bộ máy chính quyền mà cụ thể là các ban chỉ đạo nông thôn mới các cấp. Nói cách khác, Nhà nước và hệ thống chính trị đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chế định các chính sách liên quan, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nông thôn mới, mà không một tổ chức khác nào có thể thay thế được. Nông dân có vai trò là chủ thể tham gia thực hiện và hưởng thụ các thành quả do Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới mang lại. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai xây dựng nông thôn mới của nhiều địa phương lại có tình trạng còn "nhầm vai" (chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo lại lấn sân sang chủ thể tham gia thực hiện và thụ hưởng), khiến cho nông dân - những người cần phải trực tiếp tham gia và thụ hưởng từ nông thôn mới - còn “đứng ngoài cuộc”: quyền được biết, được bàn, được tham gia, được quyết định, được giám sát, được hưởng thụ… chưa được thể hiện một cách đầy đủ và vô hình chung trở thành “khán giả” trong tiến trình xây dựng nông thôn mới.
Theo số liệu điều tra xã hội học về thực trạng xây dựng nông thôn mới ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ(3), chỉ có 36,1% người nông dân cho rằng “chủ thể của tiến trình xây dựng nông thôn mới là người nông dân”, 38,9% cho rằng chủ thể chính là “Đảng và chính quyền địa phương”, chủ thể là “hội nông dân” (3,8%), “các tổ chức chính trị - xã hội” (10,6%), “các nhà đầu từ nước ngoài” (0,7%), “ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn” (9,9%). Đây là một chỉ báo thể hiện: hoặc là sự “lấn sân”, bao biện, “đóng thay vai” của Nhà nước nói chung, chính quyền địa phương nói riêng trong thực thi nông thôn mới; hoặc là công tác vận động, tuyên truyền để người dân hiểu về vai trò và vị thế, quyền lợi và nghĩa vụ của người nông dân trong xây dựng nông thôn mới chưa thật sự tốt; hoặc là những lực lượng chính trị - xã hội khác (tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, các hợp tác xã, doanh nhân, các tổ chức tình nguyện,…) chưa tham gia một cách nhiệt tình và trở thành một hợp lực trong xây dựng nông thôn mới.
Do đó, cần phải có cơ chế phối hợp, kết hợp và gắn kết trách nhiệm, vai trò, vị trí giữa Nhà nước, nông dân và các lực lượng xã hội. Đặc biệt, cần phải phát huy tính tích cực, tính chủ động, tính sáng tạo và sự tham gia nhiệt tình, có trách nhiệm của người nông dân trong xây dựng nông thôn mới; cần tạo cơ chế để các nguồn lực xã hội khác tham gia vào xây dựng nông thôn mới theo phương thức xã hội hóa, từ đó tạo một sức mạnh hợp nhất giữa Nhà nước, nông dân và xã hội cho công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Hai là, mối quan hệ giữa “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình”. Trong xây dựng nông thôn mới, một mặt cần phải phát huy nhân tố “bàn tay vô hình” của thị trường nhưng mặt khác cần phải chú trọng “bàn tay hữu hình” của Nhà nước trong điều hành, quản lý, phân phối các nguồn lực xã hội, tổ chức và huy động được nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực vào xây dựng nông thôn. Sự thành công hay thất bại của tiến trình xây dựng nông thôn mới phụ thuộc rất nhiều vào việc phát huy tác dụng của quy luật giá trị trong kinh tế thị trường và điều tiên quyết là sự kết hợp nhịp nhàng giữa “bàn tay vô hình” của thị trường và “bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Nếu thiếu đi sự định hướng chỉ đạo của Nhà nước hoặc ngược lại, Nhà nước “lấn sân” hay thay thế thị trường, đều ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình xây dựng và phát triển nông thôn mới. Khi hỏi về “Vấn đề lo lắng nhất của ông (bà) khi xã nhà tiến hành xây dựng nông thôn mới là gì?” thì có đến 97,5%(4) số người được hỏi (nông dân) cho rằng đó chính là “đời sống không được cải thiện” và vấn đề “được mùa mất giá”, “mất mùa ngay trong kho”, “làm dễ bán khó” luôn hiện hữu trong sự lo lắng đó của họ. Ngay lúc này, người nông dân rất cần “bàn tay hữu hình” của Nhà nước và các tổ chức doanh nghiệp với vai trò là “bà đỡ” cho các sản phẩm nông nghiệp do chính họ làm ra. Rõ ràng, xây dựng nông thôn mới mà người nông dân không nhận thấy được cái “mới”, không nhận được sự thay đổi về đời sống nói chung, về thu nhập nói riêng thì không thể nói đã đạt được “mục tiêu”. “Đầu ra” là hai chữ được nông dân nhắc nhiều nhất và cũng là trăn trở lớn nhất. Do đó, Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần sử dụng “bàn tay hữu hình” để giải quyết bài toán “đầu ra” cho nông dân. Thiết nghĩ, cần cung cấp thông tin chính xác, khả tín, khả dụng về thị trường nông sản; xúc tiến xây dựng mô hình tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nông dân như: đầu mối thu mua nông sản, chợ nông sản, cửa hàng nông sản trực tuyến, nông sản lên mạng,… để nông sản không còn đứng ở đầu đường đợi người mua hay phải “bán đổ bán tháo” như hiện nay.
Ba là, mối quan hệ giữa “phần mền” và “phần cứng” trong xây dựng, thực thi các chỉ tiêu, tiêu chí nông thôn mới. Trong bộ 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới, có thể phân thành các “tiêu chí cứng”, như quy hoạch và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn (giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ, bưu điện, nhà ở,…) và các “tiêu chí mềm” (thu nhập, lao động việc làm, hình thức tổ chức sản xuất, an ninh trật tự xã hội,…). Thực tế nhiều địa phương ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên cho thấy, thực hiện các “tiêu chí cứng” có tính trội hơn so với các “tiêu chí mềm”. Nói cách khác, chính quyền các địa phương chú trọng nhiều vào lập đề án quy hoạch và xây dựng kết cấu hạ tầng (đường giao thông, thủy lợi, nước sạch, trường học,…) mà ít (hoặc chưa) chú trọng đến các “tiêu chí mềm” như thu nhập, việc làm cho nông dân, yếu tố văn hóa nông thôn,… Điều này thể hiện rất rõ trong các báo cáo tham luận của các tỉnh trong Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới(5). Không phải ngẫu nhiên mà tỷ lệ xã đạt các tiêu chí về quy hoạch, điện, bưu điện cao hơn nhiều so với tiêu chí về thu nhập, môi trường, cơ sở vật chất văn hóa (xem bảng 1).
Bảng 1: Tỷ lệ xã đạt tiêu chí theo vùng trong 3 năm (2011 - 2013) (6)
Đơn vị: %
Tiêu chí số (theo bộ tiêu chí quốc gia) Tên tiêu chí Cả nước Duyên hải Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ 1 Quy hoạch 93,7 84,2 92,3 86,6 4 Điện 67,2 74,4 63,7 66,6 6 Cơ sở vật chất văn hóa 7,7 2,5 5,2 13,2 8 Bưu điện 77,0 71,5 64,0 84,9 10 Thu nhập 30,1 26,9 35,3 31,5 12 Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên 52,8 51,4 68,0 56,6 17 Môi trường 14,9 16,2 12,6 24,7
Như vậy, thực tế 3 năm triển khai thực thi Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới cho thấy, những “tiêu chí cứng” được các địa phương quan tâm đầu tư, xúc tiến thực hiện và đạt được những thành quả cao hơn so với các “tiêu chí mềm”. Điều này cũng trùng khớp với số liệu điều tra xã hội học của chúng tôi: khi được hỏi về đánh giá sự thay đổi của các phương diện (theo 19 tiêu chí) ở địa phương trong 3 năm qua khi thực hiện nông thôn mới (với mức điểm 1 là thay đổi lớn nhất, 5 là ít thay đổi nhất) thì tiêu chí về “điện” có mức độ đánh giá là 2,21 điểm, “trường học” là 2,47 điểm, “hình thức tổ chức sản xuất” là 3,42 điểm, “lao động có việc làm thường xuyên” là 3,69 điểm, “môi trường” là 3,21 điểm, “thu nhập” là 3,30 điểm,… Các chỉ báo cho thấy các lĩnh vực như “lao động có việc làm thường xuyên”, “hình thức tổ chức sản xuất”, “thu nhập” chưa có chuyển biến nhiều. Ý kiến của nhiều địa phương cho biết, các “tiêu chí mềm” là các tiêu chí thật sự khó thực hiện bởi nó liên quan đến nhiều yếu tố và đòi hỏi phải có một thời gian nhất định, quyết tâm lớn mới đạt được (thậm chí đạt được mà không “giữ” thì cũng sẽ bị “mất”), thế nhưng điều mà người dân cần hơn cả chính là vấn đề thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đổi mới phương thức tổ chức sản xuất và thương mại hóa sản phẩm nông nghiệp. Điều đó cho thấy, trong thời gian tới, cần nhấn mạnh đến các “tiêu chí mềm” nhiều hơn. Để đạt được điều này, cần có thái độ và trách nhiệm đúng đắn của các cấp ủy, chính quyền, các ban chỉ đạo nông thôn mới các cấp; tăng cường xây dựng lộ trình và hướng đến các tiêu chí “mềm”; xây dựng hệ thống cung cấp thông tin về thị trường nông sản, về kỹ thuật, tài chính,…; từng bước hướng đến bảo đảm các vấn đề y tế, giáo dục, đói nghèo và bảo đảm xã hội; có kế hoạch nâng cao trình độ cho nông dân về các mặt kỹ năng, văn hóa, lối sống, lý tưởng, pháp luật.
Bốn là, mối quan hệ tổ chức cơ sở đảng, chính quyền cơ sở và nhân dân. Tổ chức cơ sở đảng có một vị trí hết sức to lớn trong tiến trình xây dựng nông thôn mới(7), vừa đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, vừa là nhân tố thúc đẩy tiến trình thực hiện nông thôn mới; chính quyền cơ sở (đặc biệt là chính quyền cấp xã) là nhân tố chính yếu triển khai thực hiện chương trình, là một nhân tố quyết định đến chất lượng, nội dung, tiến độ của tiến trình nông thôn mới cơ sở; hơn ai hết, nhân dân mà cụ thể là người nông dân với địa vị là chủ thể, có vai trò động lực cũng là người được thụ hưởng những thành quả của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Thế nhưng, trong quá trình triển khai thực hiện nông thôn mới, đã và đang phát sinh nhiều tình huống “nhầm vai”.
Tồn tại ấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân mà trong đó chủ yếu do các phương diện chủ yếu: Thứ nhất, trình độ, năng lực nói chung, nhận thức về ý nghĩa, mục tiêu, mục đích của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Báo cáo Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010 - 2020 đã chỉ ra: “Ở một số địa phương cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và chưa chủ động triển khai thực hiện các nội dung của Chương trình nên kết quả đạt được ở mức thấp. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ các đoàn thể quần chúng chưa đáp ứng yêu cầu của xây dựng nông thôn mới”.
Thứ hai, còn có tình trạng thiếu dân chủ trong triển khai thực hiện, thiếu minh bạch trong công khai các khoản tài chính mà người dân đóng góp, sự áp đặt và cào bằng các khoản đóng góp. Các bệnh hình thức (41,5%), bệnh thành tích (39,6%), bệnh phong trào (33,1%), vấn đề tham nhũng (37,6%) là những lo lắng mà bà con nông dân nói về vấn đề triển khai thực thi nông thôn mới ở địa bàn cư trú.
Thứ ba, ý thức “vì nhân dân phục vụ” của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được quán triệt tốt, nếu không muốn nói là còn kém. Nhiều cán bộ cơ sở còn tỏ ra cửa quyền, mệnh lệnh hành chính khi thực thi các nhiệm vụ liên quan đến triển khai nông thôn mới. Trong công tác tuyên truyền, vận động, kêu gọi nhân dân thì xề xòa, làm cho qua chuyện. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều ý kiến của bà con nông dân cho rằng, muốn xây dựng nông thôn mới thì trước hết “đội ngũ cán bộ phải được thay mới” (13,9%). Khái niệm “thay mới” ở đây chưa phải là thay cán bộ mới mà chính là cung cách làm việc, tư duy của cán bộ phải được đổi mới(8).
Thứ tư, năng lực, trình độ hiểu biết về pháp luật để tham gia vào quá trình tham vấn ở nông thôn của người dân còn nhiều bất cập. Khi phân tích những khó khăn, tồn tại khi thực hiện nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cũng đã chỉ ra rằng: “Vai trò chủ thể, trách nhiệm của nông dân trong xây dựng nông thôn mới chưa được phát huy đầy đủ. Đa phần nông dân chưa được chuẩn bị năng lực và chưa tạo điều kiện cần thiết để đảm trách vai trò chủ thể”(9).
Do đó, để Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt được những mục tiêu đề ra thì cần phải kết hợp hài hòa, nhịp nhàng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổ chức cơ sở đảng (vai trò lãnh đạo, chỉ đạo), chính quyền cơ sở (vai trò quản lý, điều hành) với người dân (vai trò chủ thể). Để làm được điều này, trước mắt cần phải từng bước cải thiện phương thức quản lý theo kiểu hành chính, quan liêu, cửa quyền, mệnh lệnh sang kiểu phục vụ, lấy lợi ích chính đáng của người nông dân làm mục tiêu, cải thiện quan hệ giữa chính quyền với nhân dân, từng bước khơi dậy niềm tin và nhận được sự đồng tình, thống nhất cao của nhân dân nói chung, của người nông dân nói riêng về công cuộc xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nước ta./.
---------------------------------------
1. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05-8-2008, của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gọi tắt là Nghị quyết số 26).
2. Theo: Báo cáo Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010 - 2020 (tổ chức tại Hà Nội, tháng 5-2014), thì tính đến hết quý I năm 2014 toàn quốc có 2,05% số xã đạt 19 tiêu chí.
3, 4. Số liệu điều tra xã hội học của chính tác giả (chủ nhiệm) của đề tài cấp Bộ “Xây dựng nông thôn mới ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ: thực trạng và giải pháp” được tiến hành khảo sát chọn mẫu ở các tỉnh Phú Yên, Quảng Ngãi, Bình Định với số lượng 1.000 mẫu (nông dân) và 199 mẫu (cán bộ).
5, 6, 9. Xem: Báo cáo Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới khu vực Đông Nam Bộ, Trung Bộ và Tây Nguyên (tổ chức tại Lâm Đồng, ngày 24-3-2014).
7. Xem: Phát huy vai trò, năng lực của tổ chức cơ sở đảng trong xây dựng nông thôn mới. Tạp chí Cộng sản điện tử : http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/xay-dung-dang/2013/22636/Phat-huy-vai-tro-nang-luc-cua-to-chuc-co-so-dang.aspx
8. Trong Báo cáo Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới của Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010 - 2020, cũng đã chỉ ra rằng, một trong những tồn tại, hạn chế trong 3 năm triển khai thực hiện nông thôn mới chính là “Việc chỉ đạo phát triển sản xuất ở nhiều nơi còn lúng túng trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất hàng hóa tập trung”.
Dân chủ và nhân quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh  (09/09/2014)
Dân chủ và nhân quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh  (09/09/2014)
Tiếp tục đẩy mạnh học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh  (09/09/2014)
"Tăng trưởng kinh tế toàn cầu vẫn quá mong manh, thất thường"  (09/09/2014)
Cuộc họp thứ nhất về Báo cáo Việt Nam 2030 do WB phối hợp thực hiện  (09/09/2014)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm