Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội.

Chủ nghĩa xã hội thế giới đang trải qua một thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng. Các thế lực thù địch nhân cơ hội này ráo riết tấn công vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó phủ nhận chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình đó, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc và có hệ thống “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, luận giải nó trong tình hình hiện nay là vấn đề mang tính thời sự cấp bách về lý luận, chính trị để giữ vững lòng tin có cơ sở khoa học vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, chống lại mọi luận điệu xuyên tạc của các nhà tư tưởng tư sản và bọn cơ hội “đục nước béo cò...”.

“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do C.Mác và Ph.Ăng-ghen soạn thảo (từ tháng chạp năm 1847 đến tháng giêng 1948) đến nay đã tròn 161 năm. Đây là tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác sau bộ Tư bản. Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã phân tích một cách hết sức sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa, cơ cấu giai cấp - xã hội của nó và khởi thảo ra vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.

Xác định đặc điểm, nội dung của Tuyên ngôn, trong lời tựa đề cho lần xuất bản thứ 3 bằng tiếng Đức (1883), Ph.Ăng-ghen đã viết: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội; những cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản), không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp”(1).

Quan điểm có tính khoa học đó đã giáng một đòn chí mạng vào chủ nghĩa xã hội không tưởng, trong việc giải thích các hiện tượng xã hội. Xuất phát từ quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xây dựng luận điểm hết sức đúng đắn là: sự xuất hiện các giai cấp trong xã hội và theo sau đó là sự đối kháng giữa các giai cấp đều do sự phát triển về kinh tế của xã hội gây ra; sự xuất hiện của chế độ tư hữu và sự thay đổi về các hình thức của nó là cơ sở của quá trình lịch sử đó. Quy luật xã hội cơ bản được dùng làm cơ sở cho lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Những nhà lý luận trước C.Mác chỉ mới xác định về mặt kinh nghiệm sự kiện cuộc đấu tranh giai cấp và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh đó đối với đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Còn C.Mác trong khi cùng xuất phát từ các sự kiện về cuộc đấu tranh giai cấp, đã chỉ ra cơ sở kinh tế của nó và vạch ra một lý luận hoàn chỉnh. Sự khác nhau căn bản giữ C.Mác với các nhà không tưởng trước ông là ở chỗ đó. C.Mác đã gắn cuộc đấu tranh giai cấp với từng mặt phát triển kinh tế của xã hội. Ông phát hiện ra mối liên hệ bên trong của sự tồn tại các giai cấp, của tính chất và nội dung cuộc đấu tranh giai cấp, gắn với các giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nhờ đó vấn đề đấu tranh giai cấp trong xã hội, đặc biệt là trong xã hội tư bản chủ nghĩa đã được giải quyết về mặt lý luận.

Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đưa ra quy luật phát triển cơ bản về mặt xã hội của các xã hội có đối kháng giai cấp. Tuyên ngôn chỉ ra: “Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay (tức là toàn bộ lịch sử thành văn) chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”(2). Kết cấu xã hội của xã hội bao giờ cũng phản ánh phương thức sản xuất đi theo với sự đối kháng giữa các giai cấp mà nó vốn có. Phương thức sản xuất quyết định yếu tố tồn tại về mặt xã hội của giai cấp. Vai trò của một giai cấp trong việc tổ chức lao động của xã hội bắt nguồn từ đó.

Trên cơ sở ấy, C.Mác và Ph.Ănng-ghen đã phân tích một cách khách quan xã hội tư bản chủ nghĩa, đánh giá đúng đắn vai trò chủ nghĩa tư bản, của giai cấp tư sản và những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản tạo ra. Tuyên ngôn vạch rõ: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ kia gộp lại”(3). Từ sự phân tích quá trình sản sinh và phát triển của chủ nghĩa tư bản, lột trần những mâu thuẫn nội tại cố hữu của nó và sự đối kháng giai cấp ngày càng tăng giữa tư sản và vô sản hai ông đã rút ra kết luận quan trọng: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau” và “giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản”(4) - có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Mặc dù nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày nay đã phát triển đến một trình độ cao, tạo ra lực lượng sản xuất khổng lồ, nhưng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn diễn ra hết sức gay gắt. Chủ nghĩa tư bản đã phải thường xuyên đương đầu với các cuộc khủng hoảng nặng nề, với nhiều cơn suy thoái và nạn thất nghiệp của hàng chục triệu người. Phong trào công nhân tuy đứng trước những thử thách nặng nề, nhưng nhìn toàn cục của sự phát triển lực lượng sản xuất vẫn đang bị những tiền đề khách quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Cho nên, luận điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về nền công nghiệp lớn hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất và xã hội để thủ tiêu chế độ người bóc lột người vẫn giữ nguyên giá trị khoa học.

C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã luận chứng về tính cách mạng của giai cấp công nhân rằng, giai cấp công nhân đã được đẩy đến vị trí cách mạng một cách khách quan, vừa với tư cách là hiện thân của lực lượng sản xuất tiên tiến, vừa với tư cách là một giai cấp có lợi ích đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản. Hai ông chỉ rõ: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai câp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp(5).

Giai cấp công nhân được nền đại công nghiệp “tuyển lựa” từ tất cả các giai cấp trong dân cư mà chủ yếu là nông dân. Cùng với sự phát triển không ngừng của sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân không ngừng lớn lên về mặt số lượng và chất lượng. Là giai cấp gắn liền với nền đại công nghiệp và được nền đại công nghiệp rèn luyện, tập hợp lực lượng, biểu thị sức mạnh của mình. Ở các nước tư bản hiện nay, họ vẫn là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Bị áp bức bóc lột lại có lợi ích đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân kiên quyết đấu tranh chống giai cấp tư sản, và có khả năng đoàn kết cùng với quần chúng bị áp bức bóc lột trong cuộc đấu tranh chung. C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra rằng, khi cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến mức quyết liệt, báo hiệu giờ tận số của chủ nghĩa tư bản, thì trong nội bộ của giai cấp tư sản sẽ có sự phân hóa và một bộ phận chạy sang hàng ngũ giai cấp vô sản. Đó là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản đã có được nhận thức (về mặt lý luận) toàn bộ cuộc vận động lịch sử.

Như vậy, giai cấp công nhân có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, vì những tiền đề và lý do hết sức căn bản: Là giai cấp tiên tiến, gắn liền với nền đại công nghiệp, lớn lên cùng với nền đại công nghiệp, là sản phẩm đặc biệt của đại công nghiệp, đại biểu cho xu hướng tiến lên của đại công nghiệp. C.Mác và Ph.Ăng-ghen khẳng định: “Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của tuyệt đại đa số, mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số”(6).

Trong khi chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đồng thời nhấn mạnh đến vai trò của đảng, bảo đảm cho giai cấp này có thể hoàn thành được sự nghiệp của mình. Hai ông coi Đảng Cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản. Mục đích và lợi ích của Đảng Cộng sản và của giai cấp vô sản là thống nhất. Về cả lý luận và thực tiễn, Đảng Cộng sản luôn luôn đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Không thể tách rời Đảng Cộng sản ra khỏi giai cấp, hoặc ngược lại, lẫn lộn Đảng Cộng sản với giai cấp vô sản. Trong Tuyên ngôn, hai ông đã chỉ rõ: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận tiên quyết nhất, trong các đảng công nhân ở các nước; là bộ phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”(7).

C.Mác và Ph.Ăng-ghen cũng khẳng định rằng, Đảng Cộng sản chẳng những là một bộ phận mà còn là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Nhưng người cộng sản khác những người vô sản bình thường ở chỗ họ có tư tưởng cách mạng tiên tiến và bao giờ cũng đứng ở hàng đầu của phong trào cộng sản. Họ nhận thức rõ những bước phát triển tất yếu của quá trình lịch sử và mục tiêu tiến tới của phong trào vô sản. Do đó, họ có khả năng động viên, hướng dẫn, lôi kéo những người còn lại của giai cấp vô sản, cùng với các tầng lớp nhân dân lao động khác vào cuộc đấu tranh tự giải phóng, Với tính chất như thế, những người cộng sản là những phần tử ưu tú nhất, giác ngộ và tích cực cách mạng nhất trong các tầng lớp nhân dân lao động. Không có Đảng Cộng sản thì cách mạng không thể thành công, sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân cũng không thể thực hiện được. Đây là những vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc, là bài học còn nóng hổi mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra cho chúng ta.

Từ sau sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội cố tìm mọi cách để phủ nhận học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội đang “hội tụ” vào chủ nghĩa tư bản; rằng: chủ nghĩa tư bản đã thay đổi căn bản khác xa với thời C.Mác còn sống; giai cấp công nhân đã có mức sống cao, có tư liệu sản xuất, có cổ phần nên không bị bóc lột nữa. Do sự tác động của khoa học công nghệ, giai cấp công nhân ngày càng nhỏ bé vì số người sản xuất vật chất ngày một ít. Vì thế, họ cho rằng: giai cấp công nhân đang “hòa tan” vào chủ nghĩa tư bản và không còn là giai cấp trung tâm của xã hội; rằng: vai trò của công nhân đã thuộc về tầng lớp trí thức; trí thức hiện nay là chủ thể của xã hội, là lực lượng cơ bản thúc đẩy lịch sử tiến lên. Từ đó họ vội vàng đi đến kết luận: sứ mệnh lịch sử xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu ra trong Tuyên ngôn là không còn giá trị nữa?

Thực tế hiện nay đang phủ nhận những lập luận thù địch nêu trên. Tại các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, tuy giai cấp công nhân có mức sống cao hơn nhiều so với trước đây, nhưng vẫn bị giai cấp tư bản bóc lột với tỷ suất giá trị thặng dư ngày càng tăng. Do việc ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất nên trình độ tri thức về khoa học công nghệ của công nhân ngày càng được nâng cao. Cơ cấu thành phần công nhân cũng có sự thay đổi. Tỷ lệ công nhân trong sản xuất ngày càng nhỏ, công nhân trong các lĩnh vực thông tin, dịch vụ ngày càng lớn, và có sự chuyển hóa bộ phận giữa công nhân hiện đại với trí thức hiện đại. Xét trên khía cạnh này, khái niệm giai cấp công nhân đã được mở rộng gồm cả những người kỹ thuật viên, và một bộ phận kỹ sư, những người lao động làm thuê khác. Sản xuất vật chất của công nhân là chủ yếu và quyết định.

Thực tiễn cho thấy quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa dù có mở rộng và hiện đại đến đâu, những hình thức của nó có thay đổi như thế nào, vẫn không ngừng tái sinh ra quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh mà giai cấp công nhân tiến hành nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, dù có trải qua những bước thăng trầm, nhưng vẫn đang diễn ra theo đúng quy luật khách quan của lịch sử.

Giữ vững lòng trung thành với học thuyết Mác, giai cấp công nhân Việt Nam luôn luôn là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống chế độ áp bức, bóc lột và các thế lực phản động trong cách mạng dân tộc, dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc, thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng và tin cậy nhất của nhân dân”(8).

Hiện nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để hoàn thành được sứ mệnh nặng nề đó, giai cấp công nhân nước ta cần có bước phát triển mới về nhiều mặt. Trước hết, giai cấp công nhân cần nêu cao giác ngộ giai cấp, ý thức đầy đủ về vai trò đi đầu của mình trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò nòng cốt trong củng cố, xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức. Mặt khác, giai cấp công nhân phải tự mình phấn đấu vươn lên cùng với sự phát triển chung của đất nước.

Ngày nay, đội ngũ giai cấp công nhân nước ta đã có bước phát triển mới về số lượng và chất lượng. Họ không chỉ là những người lao động sản xuất và dịch vụ công nghiệp thuộc các doanh nghiệp nhà nước, mà còn là người lao động trong các khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài. Số công nhân - lao động tập trung trong khu vực kinh tế nhà nước hiện nay đã lên tới khoảng 2,7 triệu người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong đó 1,8 triệu công nhân kỹ thuật, 1,5 triệu trung cấp chuyên nghiệp, trên 1,3 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng, hơn 10 ngàn thạc sĩ và 12 ngàn tiến sĩ, với gần 1000 giáo sư. Bình quân có 190 cán bộ khoa học trên 10 ngàn dân, có khoảng 41 ngàn cán bộ khoa học là người thuộc các dân tộc thiểu số. Hằng năm, lao động có trình độ cao đẳng trở lên tăng 17,2%, tiến sĩ và tiến sĩ khoa học tăng 7%. Phần lớn trong số đó là lực lượng lao động có chất lượng cao của đất nước và đang là lực lượng xung kích trong cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, quản lý, có khả năng sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, đồng thời tiếp thu, làm chủ và thích nghi với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng yêu cầu rất cao sự gia tăng về chức năng “lao động trí tuệ”. Điều đó đòi hỏi người lao động phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, phải được đào tạo và đào tạo lại liên tục. Đó là một yêu cầu khách quan, cấp thiết. Đặc biệt, hiện nay đất nước ta đang ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, đòi hỏi giai cấp công nhân phải vươn lên làm chủ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới; tự mình trí thức hóa, đồng thời có chính sách đoàn kết và động viên giới trí thức đem hết tâm huyết tài năng phục vụ sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước. Để đạt tới thắng lợi cuối cùng của những nguyên lý đề ra trong Tuyên ngôn, sinh thời Mác chỉ tin tưởng vào sự phát triển trí tuệ của giai cấp công nhân.

Trên cơ sở những nguyên lý đó, Đảng ta tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội. Tạo việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5%. Huy động và sử dụng mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực lao động chất lượng cao cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Điều quan trọng là, giai cấp công nhân phải ngày càng giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cách mạng, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình, được tổ chức chặt chẽ và được dẫn dắt bởi một đảng tiền phong vững mạnh. Vì vậy, để xây dựng giai cấp công nhân, đòi hỏi trước hết xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có cơ sở sâu rộng trong tất cả các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế. Đồng thời, giai cấp công nhân phải là chỗ dựa tin cậy của Đảng, góp phần xây dựng Đảng ngang tầm với những nhiệm vụ mới. Đó là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp vô sản, vươn lên hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước hôm nay như Tuyên ngôn đã chỉ rõ: Phải có đảng lãnh đạo, giai cấp công nhân mới làm tròn sứ mệnh tiền phong của mình. Thực tế ngày nay cho thấy, lời cảnh tỉnh hùng hồn của Ph.Ăng-ghen là hết sức đúng đắn: Bất cứ một Đảng Cộng sản nào, hễ đi chệch cương lĩnh, sách lược đó thì đều phải trả ngay một giá đắt. 161 năm đã trôi qua “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” vẫn không “lỗi thời”, không “bị lịch sử đẩy lùi về quá khứ” mà đã, đang và mãi mãi có giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn lớn lao đối với giai cấp công nhân nước ta, cũng như giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.

(1) Mác - Ăng-ghen: Tuyển tập, Nhà xuất bản Sự thật, 1980, tr 509 - 510

(2) Xem Sđd, t 1, tr 540

(3) Sđd, t 1, tr 547

(4) Sđd, t 1, tr 549

(5) Sđd, t 1, tr 554

(6) Sđd, t 1, tr 555

(7) Sđd, t 1, tr 58

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, t8, tr 592