Để chống lạm phát tránh gây lạm suy cho sản xuất
Trong những tháng gần đây, nền kinh tế đã bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu tích cực như tốc độ lạm phát tăng chậm lại; áp lực thanh khoản dịu đi; kinh tế tiếp tục tăng trưởng... Điều đó chứng tỏ những biện pháp chống lạm phát do Chính phủ đề ra đã bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, để khôi phục tốc độ tăng trưởng cao, vấn đề nổi lên hiện nay là vốn cho doanh nghiệp phát triển sản xuất, bảo đảm việc làm cho người lao động. Nhiều doanh nghiệp cho rằng vẫn khó tiếp cận vốn vay, hoặc vay không đủ nhu cầu của doanh nghiệp. Nếu vấn đề này không được quan tâm thỏa đáng, sớm có cơ chế tháo gỡ đồng bộ, hữu hiệu sẽ làm ảnh hưởng đến mục tiêu đã được đề ra là ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
Ngăn chặn kịp thời và hiệu quả những hiệu ứng lạm suy sản xuất, sau khi thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát, là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Xoay quanh vấn đề lạm phát, xác định tỷ lệ lạm phát, trên cơ sở đó áp dụng “lãi suất dương”, có nhiều cách lý giải không hoàn toàn giống nhau. Xin nêu một số thông tin để bạn đọc tham khảo.
Trong một trả lời phỏng vấn Thời báo Kinh tế Việt Nam, bà Dương Thu Hương, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, từ đầu năm 2008, Chính phủ đã có kêu gọi chia sẻ khó khăn chung để đạt mục tiêu hàng đầu là kiềm chế lạm phát, đồng thời vẫn đảm bảo tăng trưởng và an sinh xã hội. Đây là chủ trương hết sức toàn diện nhưng trên thực tế thì chúng ta lại nhấn mạnh vào quan điểm “lạm phát thì lãi suất phải thực dương” và bỏ quên vấn đề phải chia sẻ. Thực ra, quan điểm lãi suất thực dương mới chỉ đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền và ít đả động đến yếu tố đầu ra. Trong nhiều trường hợp và hoàn cảnh, đầu ra lại còn quan trọng hơn đầu vào, bởi lẽ: đầu ra sẽ giúp cho các doanh nghiệp tồn tại, vượt qua được thời điểm khó khăn. Việc cân nhắc đầu ra ở đây, được hiểu theo nghĩa: Nhà nước, doanh nghiệp, người gửi tiền, ngân hàng cùng chia sẻ khó khăn thì doanh nghiệp mới có thể tiếp cận được vốn ngân hàng và họ tiếp tục sản xuất kinh doanh, nhờ đó mà hàng triệu lao động có việc làm.
Từ nay đến cuối năm, việc kiềm chế lạm phát vẫn tiếp tục được coi là mục tiêu ưu tiên. Vì thế, việc xác định chính xác tỷ lệ lạm phát để trên cơ sở đó xác định lãi suất dương là vấn đề quan trọng. Có ý kiến cho rằng, nếu lấy chỉ số giá tiêu dùng CPI làm thước đo lạm phát, thì rõ ràng, nếu theo đuổi mục tiêu duy trì lãi suất dương sẽ đánh mạnh vào lợi ích của các nhà đầu tư, vì khó có phương án kinh doanh nào bảo đảm mức sinh lời được như lãi suất vay ngân hàng. Và như thế, chính sách lãi suất đã trực tiếp kìm hãm đầu tư, hậu quả cuối cùng là kìm hãm tăng trưởng. Chống lạm phát bằng cách giảm tăng trưởng là kinh nghiệm đã được đúc rút từ thực tế của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần có biện pháp để ngăn chặn hậu quả kế tiếp của nó là suy giảm sản xuất và nguy cơ suy thoái kinh tế. Nếu xét như vậy thì tỷ lệ lạm phát ở nước ta thời gian qua không đến mức quá trầm trọng, bởi trong tỷ lệ tăng giá có phần giá tăng do mất cân đối cung cầu (cung thấp, cầu cao dẫn đến giá tăng - cụ thể như xăng dầu, lương thực, thực phẩm vừa qua), đòi hỏi phải tập trung kích cung để cân bằng lại cầu. Nếu tách phần thừa tiền trong lưu thông, có tính toán cho rằng chiếm 60% - 70% chỉ số CPI. Trong nền kinh tế Mỹ, đã có thời dùng chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát giá cả, nghĩa là giá tăng do mất cân đối cung cầu, đã dẫn đến cơn suy thoái nghiêm trọng như thời kỳ 1979 - 1982.
Nhiều nước trên thế giới cũng đang chịu lạm phát cao, nhưng không nơi nào có lãi suất cao như ở Việt Nam. Bởi giữa Việt Nam với các nước có điểm khác biệt, đó là, các nước điều hành lãi suất theo chỉ số lạm phát cơ bản (Core inflation) thay vì chỉ số giá tiêu dùng (CPI) như ở Việt Nam. Lạm phát cơ bản đã loại trừ những yếu tố biến động bất thường của giá xăng dầu, lương thực - thực phẩm, trong khi CPI bao gồm tất cả biến động này. Phải loại trừ yếu tố biến động bất thường bởi có thể tháng này giá lương thực - thực phẩm tăng vì một nguyên nhân nào đó, nhưng tháng sau mức giá này lại giảm. Sự tăng giá này không phải xuất phát từ nguyên nhân tiền tệ (thừa hay thiếu trong lưu thông).
Tất cả các nước phát triển và rất nhiều nước đang phát triển đã dùng CPI trừ năng lượng và thực phẩm để có thể xử lý cơn sốc dầu lửa theo quy luật cung cầu, vì họ hiểu thực chất cơn sốc dầu lửa là cung thấp hơn cầu về dầu lửa. Nếu lãi suất huy động cao hơn CPI, để đảm bảo cho người gửi tiền có lãi thì không người vay nào “chịu nổi”. Nhiều nước như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc…đều có lạm phát cơ bản thấp hơn nhiều so với mức lạm phát tính theo CPI. Thái Lan hiện CPI là 9,2%, lạm phát cơ bản là 3,5% và các ngân hàng đang huy động với lãi suất dưới 3,5%.
Vì vậy, có ý kiến đề xuất cần xác lập lại, tiến tới điều hành lãi suất theo lạm phát cơ bản để có cơ sở giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Trước đây đã có ý kiến đề xuất bỏ CPI và chỉ ban hành chỉ số lạm phát cơ bản. Tuy nhiên, theo PGS,TS Trần Hoàng Ngân, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, thành viên Hội đồng Tiền tệ quốc gia, điều đó là không nên, vẫn cần duy trì công bố cả hai chỉ số, bởi: CPI để làm cơ sở tính toán việc trả lương, thu nhập (bảo đảm tiền lương và thu nhập thực tế cho người lao động), còn lạm phát cơ bản để điều hành chính sách tiền tệ. Cũng theo PGS,TS Trần Hoàng Ngân, lạm phát cơ bản tại Việt Nam ước tính chỉ 11%-12%, như vậy mức lãi suất mà các ngân hàng huy động khoảng 14% vẫn đảm bảo cho người gửi tiền có lãi. Mức lãi suất phù hợp, với huy động là khoảng 14% và cho vay là 18%.
Để chống lạm phát, chính sách vĩ mô nhắm tới mục tiêu phải giảm cầu, trong đó giải pháp tăng lãi suất là quan trọng nhất. Lãi suất vay tiền tăng cao, người ta sẽ giảm bớt vay tiền ngân hàng để đầu tư, tiêu dùng. Nay mục tiêu này đã đạt được, cầu đã giảm, đồng thời cũng xuất hiện những dấu hiệu thiếu hụt nguồn cung, doanh nghiệp giảm bớt đầu tư có thể dẫn đến thất nghiệp, ít nhiều ảnh hưởng tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Mức lãi suất cho vay cao đã từng có ở những năm thập niên 1980. Vì vậy, cần phải có giải pháp xử lý để tránh nền kinh tế vừa chịu lạm phát cao lại suy giảm tăng trưởng.
Ngân hàng Nhà nước phải chia sẻ để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay. Về phía các ngân hàng thương mại cũng phải tính toán lại lãi suất huy động, nên đưa lãi tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn và các kỳ gửi ngắn trở lại mức bình thường. Các giải pháp kiềm chế lạm phát cần phải có thời gian (độ trễ) để phát huy tác dụng. Nếu làm kiên quyết thì có thể trong quý II/2009 Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc và tạo lộ trình để đưa lãi suất trở về mức của năm 2007.
Trong gần 1 tháng qua, các ngân hàng đã dần điều chỉnh lãi suất huy động theo hướng phân hóa, kỳ hạn ngắn có lãi suất thấp hơn kỳ hạn dài. Hầu hết các ngân hàng đều giảm lãi suất huy động VND kỳ hạn gửi cực ngắn và dài hơi, giữ nguyên lãi suất ở các kỳ gửi từ 3-9 tháng, riêng kỳ hạn 6 tháng thường có mức lãi suất cao nhất. Các kỳ hạn ngoài 6 tháng, đặc biệt từ 12 tháng trở lên, bị cắt giảm mạnh. Ngân hàng An Bình giảm 0,9%/năm các kỳ hạn từ 15 tháng trở lên. Ngân hàng Phương Đông giảm 0,01-0,05% ở các kỳ hạn trên 7 tháng, giảm mạnh ở kỳ hạn 13 và 18 tháng.
Trong biểu lãi suất công bố ngày 18-8 của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), kỳ hạn 3-6 tháng đang dẫn đầu, dao động từ 17,4-17,52%/năm. Ngân hàng Kiên Long tối đa chỉ còn 18,4%/năm kỳ hạn 9 tháng; kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng là 18,4%/năm; các kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng là 18,2 -18,3%/năm. Ngân hàng Quân Đội có lãi suất cao nhất là 17,75%/năm cho kỳ hạn 6 tháng... Đến ngày 29-8-2008, một loạt các Ngân hàng thương mại nhà nước và các tổ chức tín dụng đã tiến hành điều chỉnh giảm lãi suất cho vay. Các Ngân hàng thương mại nhà nước và Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương đã công bố giảm lãi suất cho vay khoảng 0,5% - 1%/năm so với mức lãi suất cho vay tối đa (21%/năm) bắt đầu áp dụng từ ngày 29-8-2008. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Lãi suất cho vay thông thường tối đa là 20%/năm, lãi suất cho vay đối với những lĩnh vực ưu tiên theo chính sách khách hàng là 18,2%/năm. Ngân hàng Công thương Việt Nam: Lãi suất cho vay thông thường tối đa là 20,2%/năm, lãi suất cho vay đối với những lĩnh vực ưu tiên theo chính sách khách hàng là 19,5%/năm. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam: Lãi suất cho vay thông thường tối đa là 20%/năm, lãi suất cho vay đối với những lĩnh vực ưu tiên theo chính sách khách hàng là 19,2%/năm. Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương: Lãi suất cho vay thông thường tối đa là 20,5%/năm, lãi suất cho vay đối với những lĩnh vực ưu tiên theo chính sách khách hàng là 19,475%/năm. Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng Sông Cửu Long: Lãi suất cho vay thông thường tối đa là 20%/năm, lãi suất cho vay đối với những lĩnh vực ưu tiên theo chính sách khách hàng là 19%/năm. Mục đích việc giảm lãi suất cho vay này là nhằm góp phần chia sẻ cùng doanh nghiệp và người vay, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển.
Với việc điều chỉnh này, các ngân hàng đang dần tạo "đường cong" cho lãi suất huy động thay vì gửi ngắn hay dài hạn đều có lãi suất như nhau. Các ngân hàng cũng giảm lãi suất ở các kỳ gửi trên 12 tháng vì lường trước khả năng lạm phát thời gian tới sẽ giảm.
Kinh nghiệm thực tế trong điều hành lạm phát cho thấy trộn lẫn nguyên nhân lạm phát do tiền tệ và nguyên nhân không do tiền tệ để xử lý việc chống lạm phát là không đúng quy luật kinh tế khách quan. Lạm phát dẫn đến giá cả tăng, nhưng không phải mọi hiện tượng giá tăng đều do lạm phát. Giá cả do lạm phát tiền giấy có đặc trưng không thể trộn lẫn được đó là giá tăng do tiền giấy mất giá, thì sự lên giá diễn ra tương đối đồng loạt đối với tất cả các mặt hàng trong lưu thông. Còn giá tăng một số mặt hàng nào đó có tính chất cục bộ thường là mang tính cơ cấu cung cầu. Thế giới đã có lý luận vững chắc về các công cụ của chính sách tiền tệ và có kinh nghiệm lâu năm về chữa trị như lãi suất dương lớn hơn tỷ lệ mất giá của tiền giấy, nghĩa là giá các ngân hàng mua tiền giấy cao hơn mức mất giá của chúng để rút bớt chúng khỏi lưu thông.
Năm 1989, để chống lạm phát phi mã, chúng ta dùng lãi suất cao tới 12%/tháng rồi sau đã điều chỉnh xuống 7% vẫn thu hút người dân xếp hàng gửi tiền vào ngân hàng, lạm phát phi mã với chỉ số giá cả lên tới 500% -700% đã giảm nhanh chỉ còn 34,4%/năm ngay trong nửa đầu của năm 1989.
Giá tăng do lạm phát giá cả lại do quy luật cung cầu chi phối, cụ thể là cung nhỏ hơn cầu về dầu lửa, nên dùng các công cụ của chính sách tiền tệ để chữa “lạm phát chi phí đẩy” (một loại lạm phát giá cả) do cơn sốc dầu lửa gây ra là dùng nhầm thuốc. Điều đó có thể làm cho bệnh nặng hơn, như Gs. Samuelson đã nói trong Mục “Chính sách tiền tệ trong cuộc suy thoái 1979-1982” rằng “Chính sách tiền tệ trong cuộc suy thoái 1979-1982: Lãi suất tăng dẫn tới suy thoái sâu sắc như thập niên 1930. Chính sách thắt chặt tiền tệ đi quá xa... thất nghiệp trên 10%...” [1].
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng từng tác động mới “mổ xẻ” được việc điều hành lạm phát mà những giải pháp hợp lý sẽ tránh việc chống lạm phát dẫn đến suy thoái kinh tế. Đó là con đường xây dựng nền tảng lý luận vững chắc hơn cho việc đối mặt lịch sử với chu kỳ suy thoái và cả khủng hoảng có tính toàn cầu đang được báo chí nước ngoài cảnh báo ngày càng nhiều hơn và rõ ràng hơn.
[1] Samuelson &Nordhaus, Economics, McGraw-Hill, 17th edition. Page 557
Tôn vinh 476 Hoa Trạng Nguyên các tỉnh phía Nam  (15/09/2008)
UNICEF: Số trẻ dưới 5 tuổi tử vong giảm  (15/09/2008)
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vui Tết Trung thu với thiếu nhi  (14/09/2008)
Nạn nhân bom nguyên tử chia sẻ với nạn nhân da cam  (14/09/2008)
Xã hội hóa thanh niên và định hướng xã hội hóa cho thanh niên  (14/09/2008)
Khủng hoảng ngoại giao Oa-sinh-tơn - Nam Mỹ leo thang  (14/09/2008)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm