TCCS - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước (KTNN) và KTNN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thành phần KTNN bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu. Trong đó chia thành 3 nhóm cơ bản: Nhóm các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân, như đất đai và tài nguyên gắn với đất đai, vùng biển,...; Nhóm các yếu tố vật chất mà Nhà nước sử dụng vốn ngân sách, kể cả các nguồn vốn mà Nhà nước huy động; Nhóm các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được hình thành trên cơ sở đầu tư nhà nước, kể cả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Nhóm này là biểu hiện cụ thể của việc Nhà nước thực hiện hoạt động kinh tế. Như vậy, trong thành phần KTNN, DNNN giữ vị trí cơ bản và rất to lớn.
Vai trò của DNNN

Các DNNN vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt do Nhà nước sử dụng trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là chủ thể kinh doanh, các DNNN phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có hiệu quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các doanh nghiệp này. Là lực lượng tham gia vào các hoạt động kinh tế như một công cụ của Nhà nước, các DNNN góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Như vậy, vai trò của DNNN thể hiện trên 3 mặt sau:

Về mặt kinh tế: Vai trò của DNNN thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau: (1) Khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường và khu vực tư nhân. Đây là vai trò chủ yếu và quan trọng nhất của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì tất cả những khuyết tật của cơ chế thị trường đều làm giảm hiệu quả xã hội của hệ thống kinh tế. (2) Đảm nhận các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn vượt quá khả năng của tư nhân. (3) Tham gia vào những lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn, có hệ số rủi ro cao. (4) Tham gia một số ngành có lợi thế cạnh tranh

Về mặt chính trị: Vai trò của DNNN thể hiện ở hai nội dung cơ bản sau: Một là, nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...). Hai là, tham gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).

Về mặt xã hội: Do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, DNNN phải gánh vác chức năng và vai trò xã hội, khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác. Vai trò này thể hiện ở chỗ nó phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu.

Nhìn lại những năm qua, khi kinh tế thế giới suy thoái, thiên tai, dịch bệnh hoành hành, nhờ có các DNNN mới bảo đảm cân đối vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy trì mức tăng trưởng khá cao. Cùng với tăng trưởng kinh tế, các DNNN còn đóng góp tích cực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm ổn định chính trị xã hội, an ninh quốc phòng, chủ quyền quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của đất nước ở khu vực và trên thế giới...

Trong 3 năm (2007 - 2009), các DNNN nộp trên 457.000 tỉ đồng, chiếm trên 39% thu ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, năm 2010, tổng hợp tình hình của 21 tập đoàn (TĐ), tổng công ty 91 (ngoại trừ Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam - Vinashin), quy mô vốn chủ sở hữu đạt 540.701 tỉ đồng, tăng 11,75% so với năm 2009; tổng doanh thu ước đạt 1.173.489 tỉ đồng, bằng 122% kế hoạch năm, tăng 36% so với năm 2009; 20/21 tập đoàn - tổng công ty nhà nước (TCTNN) có lãi, tổng lợi nhuận trước thuế ước đạt 70.778 tỉ đồng. Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động đã góp phần tạo ra hàng vạn việc làm gián tiếp, mà khu vực kinh tế dân doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm phần lớn.

Tại phiên họp ngày 18-6-2010, sau khi nghe Đoàn kiểm tra Trung ương báo cáo kết quả kiểm tra thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 9 (khóa IX) và Nghị quyết Đại hội X của Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, Bộ Chính trị đã kết luận: "...Doanh nghiệp nhà nước giảm về số lượng, nhưng trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng thì mạnh lên, quy mô vốn tăng, cơ bản thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt, có vị trí then chốt, làm công cụ vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...".

Hạn chế cần khắc phục


Tuy nhiên, thực tế những năm qua khu vực DNNN cũng bộc lộ nhiều bất cập. Cụ thể:

Một là, quy mô tổng thể quá lớn. Tỷ trọng của khu vực nhà nước năm 2009 là 35,13%(1) là quá cao so với các nước, kể cả các nước có tính định hướng xã hội cao như các nước Bắc Âu. Tính đến cuối năm 2010, có hơn 6.000 DNNN được chuyển đổi (cổ phần hóa, giao, bán, khoán,....) nhưng vẫn còn khoảng 1.200 DNNN. Đây là con số lớn so với số lượng DNNN từ 10 tới 120 tại các quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), 240 DNNN tại Ấn Độ.

Xét về lý thuyết, khu vực DNNN trong nền kinh tế thị trường không cần có tỷ trọng cao mà chỉ cần chiếm giữ những vị trí đúng như vai trò của nó phải có. Theo nhiều nghiên cứu, tỷ trọng DNNN được coi là quá lớn khi vượt quá giới hạn 20% - 25% GDP và quá nhỏ khi ở mức dưới 5% GDP. Trên thực tế, tỷ trọng DNNN ở các nước công nghiệp phát triển đạt mức trung bình dưới 10% GDP, còn ở các nước đang phát triển tỷ lệ này có cao hơn nhưng cũng chỉ ở mức trung bình trên 10%, trong đó cao nhất là các nước châu Phi (14%), Mỹ La-tinh (10%) và châu á (9%). ở các nước chuyển đổi, mục tiêu của các chương trình tư nhân hóa đều hướng đến một tỷ trọng DNNN hợp lý ở mức khá thấp. Ở Trung Quốc, tỷ trọng của DNNN trong GDP dao động ở mức khoảng 15%.

Hai là, cơ cấu bất hợp lý. Hiện cơ cấu khu vực DNNN còn bất hợp lý về ngành, vùng, quy mô và mặc dù đã có rất nhiều biện pháp nhưng vẫn chưa được chuyển dịch thích đáng. Trước hết, tỷ trọng DNNN (xét về số lượng) ở khu vực nông nghiệp (25%) và thương mại, dịch vụ (40%), trong khi công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo còn nhỏ. Cơ cấu phân cấp quản lý cũng bất hợp lý ở chỗ tỷ trọng DNNN thuộc địa phương quản lý vẫn còn quá cao. Về quy mô, số doanh nghiệp có quy mô dưới 10 tỉ đồng vẫn còn nhiều, trong đó đa số là doanh nghiệp địa phương. Tình trạng manh mún, chồng chéo, trùng lặp của các DNNN trên cùng một địa bàn mang tính phổ biến dẫn đến đầu tư của Nhà nước bị dàn trải, cạnh tranh không lành mạnh giữa các DNNN, thậm chí giữa các đơn vị của cùng một tổng công ty, gây lãng phí nguồn lực.

Ba là, hiệu quả hoạt động thấp. Chỉ tiêu ROA (tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản) và ROE (tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu) của 8 TĐ và 54 TCTNN có mặt trong Bảng xếp hạng VNR500 năm 2009 lần lượt chỉ là 6,3% và 6,2%. Trong khi đó, các con số tương ứng của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là 14% và 28%. Các chi tiêu ROA và ROE không được cải thiện trong năm 2010. Điều đó cho thấy, nếu xét riêng về hiệu quả kinh tế, các DNNN đang thua kém từ 2 đến 3 lần so với các doanh nghiệp FDI.

Các thống kê cho thấy, chỉ số ICOR ở khu vực nhà nước khoảng 8 - 14 so với khoảng 3 - 5 ở khu vực tư nhân. Tình trạng này nếu để tiếp tục kéo dài có nguy cơ đe dọa tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính và nền kinh tế.

Bốn là, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Phần lớn các DNNN được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nguồn khác nhau, có cả những thiết bị lạc hậu được sản xuất từ những năm 50, 60 thế kỷ XX. Theo ước tính, có đến 80% thiết bị, công nghệ của DNNN lạc hậu so với các nước tiên tiến vài ba chục năm, trong khi tốc độ đổi mới công nghệ chỉ ở mức 10%. Đầu tư cho công nghệ cao, hiện đại cũng không được quan tâm thích đáng. Như vậy, DNNN khó có thể thực hiện được vai trò làm gương về năng suất, chất lượng, làm đầu tàu về khoa học - công nghệ trong điều kiện cạnh tranh hiện nay và tương lai.

Năm là, tình trạng thiếu vốn kinh doanh mang tính phổ biến. Mặc dù, DNNN được coi là khu vực phải có vai trò rất to lớn, nhưng trên thực tế, 60% số DNNN không đủ vốn điều lệ theo quy định. Trên 50% số DNNN chưa đủ vốn lưu động cho nhu cầu hoạt động kinh doanh nên rất bị động trong sản xuất, hiệu quả kinh doanh giảm do phải trả lãi vay ngân hàng quá nhiều, khả năng trích lợi nhuận để lập quỹ phát triển sản xuất còn rất ít. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2009, trung bình mỗi doanh nghiệp Việt Nam có quy mô 40 lao động và 31.319,3 triệu đồng vốn. Trong đó, các DNNN trung bình có 514 lao động và 790.032,4 triệu đồng; doanh nghiệp FDI trung bình có 325 lao động và 343.736,2 triệu đồng vốn và doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ có 24 lao động và 13.860,2 triệu đồng.

Trong những năm qua, DNNN luôn chiếm khoảng 50% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhưng chỉ đóng góp gần 40% GDP và 30% thu thuế nội địa, trong khi lại chiếm hơn 60% dư nợ tín dụng và tổng dư nợ quốc gia. Về phương diện lao động- việc làm, kết quả điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ trọng lao động của khu vực DNNN giảm rất nhanh từ mức 44% trong giai đoạn 2001 - 2005 xuống còn 24% trong giai đoạn 2006 - 2008. Không những thế, tỷ lệ tạo ra việc làm mới cũng giảm một cách tương ứng từ -4% xuống -22%, tức là DNNN không những không tạo ra việc làm mới mà còn cắt giảm lao động, do vậy gánh nặng tạo việc làm mới hoàn toàn đặt trên vai của khu vực tư nhân, chủ yếu là của khu vực dân doanh.

Nếu nhìn vào hoạt động sản xuất công nghiệp, lĩnh vực trung tâm trong chiến lược phát triển theo hướng công nghiệp hóa của Việt Nam, thì vai trò của khu vực DNNN cũng hết sức khiêm tốn. Nếu như vào năm 1995, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước và tư nhân là 50% - 50%, thì đến năm 2009, tỷ lệ này chỉ còn là 20% - 80%.

Chưa kể, DNNN là một nguyên nhân quan trọng của tình trạng nhập siêu ngày một cao ở Việt Nam. Đóng góp một cách khiêm tốn cho kim ngạch xuất khẩu nhưng lại là nơi tạo ra một tỷ lệ lớn kim ngạch nhập khẩu. Cụ thể là sau khi trừ dầu thô, than và khoáng sản thì DNNN chỉ tạo ra khoảng 15% - 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi nhập khẩu rất nhiều, thông qua các dự án lớn như Dung Quất, Vinashin, và những hoạt động thâm dụng vốn và công nghệ (chủ yếu có được nhờ nhập khẩu) của DNNN.

Một số vấn đề cần tập trung giải quyết


Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới mới đây đã làm cho nhiều nhà quản lý và nghiên cứu phải nhìn nhận lại vai trò của kinh tế nhà nước cũng như DNNN. ở những nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po,... DNNN vẫn đóng vai trò quan trọng, nhất là trong chuyển giao công nghệ, liên doanh góp vốn với nước ngoài. Thực tế cho thấy, ngay tại những nước tư bản phát triển nhất, kết cấu hạ tầng cũng vẫn phải do nhà nước đảm nhận xây dựng và vận hành.

 Giáo sư Mai-cơn Póc-tơ (Michael Porter) Đại học Harvad, nhận xét: Các DNNN bên cạnh việc phải bảo đảm các chí tiêu kinh doanh thì còn phải bảo đảm các chỉ tiêu về xã hội do Chính phủ đề ra, vì thế các DNNN rất khó có thể là tốt 2 nhiệm vụ cùng một lúc.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 1997 về chủ đề doanh nghiệp nhà nước đã kết luận: "Mặc dù đã qua hơn một thập niên nỗ lực chuyển đổi với sự đồng tình gia tăng và ngày càng có nhiều ý kiến cho rằng chính phủ (doanh nghiệp nhà nước - TG) hoạt động kém hiệu quả hơn so với khu vực kinh tế tư nhân, thì các doanh nghiệp nhà nước ở các nước đang phát triển vẫn chiếm một tỷ trọng lớn gần bằng tỷ trọng của 20 năm trước"(2)... "Bất chấp các nỗ lực giải thể, các doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước nghèo nhất"(3).


Ở Việt Nam, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước xuất phát từ lợi ích của đất nước, của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước phát huy tốt vai trò chủ đạo thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển nhanh, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, hiện nay, trong thành phần kinh tế nhà nước, một số DNNN chưa xứng đáng với vai trò mà nó đang nắm giữ, Vinashin là một điển hình của sự yếu kém này.

Tiếp tục quán triệt sâu sắc các nội dung của Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 9 (khóa IX), Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và các kết luận của Bộ Chính trị, tạo sự nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị và trong xã hội về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, định hướng phát triển và các giải pháp nhằm đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và vị trí của DNNN, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, xác định DNNN chỉ là một bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước, do đó DNNN không cần nắm tỷ trọng cao và áp đảo ở tất cả các ngành, các lĩnh vực.

Phải phân biệt vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế với vai trò và vị trí của các DNNN. Vì chưa có sự tách biệt rõ ràng nên các DNNN vừa thực hiện chức năng kinh doanh, vừa thực hiện một số chức năng, như cơ quan quản lý nhà nước, lại phải lo đạt chỉ tiêu kinh doanh và thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội. Do đó, cần có cơ chế bảo đảm để phân định rạch ròi nhiệm vụ chính trị - xã hội mà Nhà nước giao cho với lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với đó, xóa bỏ cơ chế chủ quản theo kiểu hành chính quan liêu, bao cấp đối với các DNNN, để các doanh nghiệp này được tự chủ trong cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng đồng vốn của Nhà nước trước các cơ quan tài chính.

Kinh nghiệm phát triển DNNN trên thế giới cũng như cơ sở lý thuyết cho thấy, sự tồn tại của DNNN trong nền kinh tế thị trường là cần thiết. Việc quan trọng hiện nay là phải tận dụng cơ hội khủng hoảng để tái cơ cấu và điều chỉnh trên cơ sở xem xét lại gốc rễ vai trò của DNNN trong nền kinh tế, qua đó giúp phân bổ lại nguồn lực quốc gia một cách hiệu quả hơn và khẳng định vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước.
Thứ hai, cần xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng quản trị và tổng giám đốc trong các DNNN đối với vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp để có thể vừa bảo đảm quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước.

Việc tách bạch 2 yếu tố sở hữu và quản trị là rất quan trọng. Bởi hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không phụ thuộc yếu tố sở hữu mà phụ thuộc yếu tố quản trị doanh nghiệp. Nếu quản trị kém sẽ dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn và hoạt động thấp. Đối với yếu tố sở hữu, vấn đề đặt ra là phải xác định rõ nội dung giám sát của Nhà nước, vai trò quản lý nhà nước và vai trò chủ sở hữu, cũng như vai trò chủ sở hữu với quyền quyết định kinh doanh.

Thứ ba, phân định rõ những ngành nào Nhà nước cần nắm 100% vốn, ngành nào cần nắm cổ phần chi phối, ngành nào không cần. Đẩy mạnh sắp xếp DNNN theo hướng chỉ tập trung vào những ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt mà Nhà nước cần nắm giữ, chi phối. Kiên quyết sắp xếp, giải thể các DNNN hoạt động không hiệu quả, làm ăn thua lỗ kéo dài, không có khả năng khôi phục; chấn chỉnh tình trạng nhiều DNNN mở quá rộng ngành nghề mới không liên quan đến ngành nghề chính, không góp phần làm cho ngành nghề chính lớn mạnh mà còn làm cho nguồn lực của tập đoàn, tổng công ty bị phân tán, mang nhiều rủi ro trong kinh doanh. Tổ chức, sắp xếp các DNNN theo ngành, lĩnh vực trọng yếu để thành lập các TCTNN đủ mạnh và tiếp tục thí điểm các tập đoàn đang có để các đơn vị này thực sự là công cụ của Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp trong khu vực và thế giới. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa DNNN dựa trên cơ sở cơ chế thị trường. Có cơ chế tạo điều kiện cho các TĐ, TCTNN phối hợp với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế trong nước nâng cao năng lực, sức cạnh tranh trong thực hiện các dự án đầu tư lớn trong và ngoài nước.
Thứ tư, về công tác cán bộ, xây dựng cơ chế bảo đảm để các DNNN hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng, nhưng đào tạo và tuyển chọn đội ngũ những cán bộ quản lý doanh nghiệp ngang tầm cũng rất cần thiết. Không thể chấp nhận những cán bộ có trình độ chuyên môn thấp, kém năng động, nhất là khi trao cho họ những doanh nghiệp có số vốn lớn hàng trăm tỉ đồng và hàng nghìn người lao động. Quản lý DNNN mang những đặc thù riêng, nhất là phải chấp hành hàng loạt những quy định riêng do Nhà nước đặt ra với tư cách là chủ sở hữu. Vì vậy, phát hiện và sử dụng các cán bộ quản lý DNNN giỏi khó hơn nhiều so với các loại hình khác.

Nên áp dụng chế độ thi tuyển để chọn giám đốc của từng DNNN và chỉ bổ nhiệm có thời hạn dựa trên những điều kiện hợp lý mà các ứng cử viên đưa ra khi tham dự thi tuyển. Cần có một cơ chế đủ sức hấp dẫn để thu hút những con người đầy tâm huyết và năng lực vào đội ngũ quản lý DNNN, đồng thời cần có cơ chế đánh giá, giám sát.