Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại theo cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ đổi mới

GS, TS. Vũ Văn Hiền
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
22:28, ngày 04-10-2020

TCCS - Trong gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã đạt được những thắng lợi trong công tác đối ngoại. Trước bối cảnh tình hình khu vực, thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, công tác đối ngoại cần kiên trì nắm vững nhiệm vụ, mục tiêu, tôn chỉ nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, vì lợi ích quốc gia - dân tộc.

Lực lượng tiêu binh thực hiện nghi thức thượng cờ nhân kỷ niệm 53 năm Ngày thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN (8-8-1967 - 8-8-2020) và 25 năm Ngày Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (28-7-1995 - 28-7-2020) _Ảnh: TTXVN

Về nhiệm vụ đối ngoại được Đảng xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (Cương lĩnh năm 1991) nêu rõ: Mục tiêu chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) (sau đây gọi là Cương lĩnh năm 2011) cụ thể hóa nhiệm vụ đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh”(1).

Như vậy, Cương lĩnh năm 2011 của Đảng xác định một cách cơ bản, toàn diện nhiệm vụ đối ngoại từ nguyên tắc, mục tiêu, phương châm và định hướng lớn cũng như những nội dung cụ thể. Đó là những vấn đề căn cốt để Đảng tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhận thức và sáng tạo trong chỉ đạo thực tiễn quá trình triển khai nhiệm vụ, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

1- Về nhận thức, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn và đầy đủ hơn về tính chất của thời đại, về thế giới và khu vực, làm cơ sở quan trọng để xác định nhiệm vụ đối ngoại.

Một là, nhận thức về thời đại, Đảng ta khẳng định: Thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga. Đây là một thời đại lịch sử lâu dài, phải trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn với những tính chất và nội dung, các xu hướng, các mâu thuẫn, cũng như những vấn đề chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội không giống nhau. Thế giới có nhiều thay đổi nhưng thời đại theo nghĩa rộng không thay đổi. Trên cơ sở kiên định và nhất quán nhận định về thời đại với quá trình lịch sử lâu dài, Đảng ta đã nêu bật tính chất của giai đoạn hiện nay của thời đại, khẳng định tình hình thế giới tuy có những diễn biến phức tạp, các nước xã hội chủ nghĩa gặp nhiều khó khăn nhưng sẽ đứng vững và phát triển. Sự thật đã diễn ra như vậy. Chủ nghĩa xã hội đã không hề mất đi, các nước xã hội chủ nghĩa vẫn vững vàng phát triển theo con đường đã lựa chọn. Đất nước ta tự tin vững bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai là, nhận thức về tình hình thế giới. Theo từng mốc thời gian, Đảng ta nhấn mạnh những đặc điểm nổi bật của thế giới cũng như khu vực về chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội; về những vấn đề toàn cầu, những xu hướng vận động của thế giới, về sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, về toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, về hòa bình, về xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh... Những nhận định nhạy bén và xác đáng đó là cơ sở khoa học, thực tiễn để Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại cụ thể.

2- Về nội dung của nhiệm vụ đối ngoại, trước tiên, Đảng ta nhận thức và xác định ngày càng cụ thể những nội dung của nhiệm vụ đối ngoại. Văn kiện Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới”(2).

Thiếu nhi Thủ đô tặng hoa chào mừng Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thăm Việt Nam _Ảnh: TTXVN

Thứ hai, quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta là triển khai thực hiện nhiệm vụ đối ngoại để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đối ngoại để phục vụ đối nội. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm thúc đẩy các quan hệ kinh tế, tăng cường hợp tác kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ ba, xác định rõ mục tiêu tối thượng khi thực hiện nhiệm vụ đối ngoại là lợi ích quốc gia - dân tộc, mục tiêu phát triển được đặt lên hàng đầu; vai trò của nhiệm vụ đối ngoại với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc được đặc biệt coi trọng. Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định: “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(3).

3- Về phương châm và định hướng trong quá trình triển khai nhiệm vụ đối ngoại, từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy”, “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, Đảng ta từng bước chuyển sang định hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế. Đan xen lợi ích với các đối tác giúp cho việc tăng cường độc lập, tự chủ thông qua sự gia tăng tùy thuộc lẫn nhau giữa nước ta và các nước. Về mặt kinh tế, giúp ta tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác nhất định. Về chính trị, đa dạng hóa và đa phương hóa giúp ta tránh bị lôi kéo, ép buộc trong quan hệ với các nước khác. Chúng ta chủ trương mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội.

Đảng ta đổi mới nhận thức một cách rõ ràng, chuyển cách nhìn biện chứng và thực tế, từ tư duy bạn - thù sang tư duy đối tác và đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc trong từng hoàn cảnh cụ thể; thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác; xác định lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế; đồng thời, đấu tranh với đối tượng, với mặt đối tượng. Phương châm “đối tác - đối tượng” thể hiện tư duy mềm dẻo là cơ sở để xử lý một cách hiệu quả các quan hệ lợi ích đa chiều, phức tạp hiện nay. Khi đã là bạn, là đối tác tin cậy với các nước, để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, cần nhận thức rõ trong đối tác có đối tượng và trong đối tượng có đối tác. Phương châm này giúp ta tận dụng cơ hội hợp tác; đồng thời, thấy rõ hơn sự khác biệt về lợi ích để tìm các giải pháp đưa quan hệ phát triển, không bỏ lỡ cơ hội hợp tác nhưng cũng không lơ là mất cảnh giác. Đây cũng là một định hướng quan trọng để nhiệm vụ đối ngoại gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về thời đại và tình hình thế giới, khu vực, Đảng ta xác định phương châm và định hướng cho thực hiện nhiệm vụ đối ngoại là hợp tác và đấu tranh. Dòng chủ lưu trong giai đoạn hiện nay của thời đại là hòa bình, hợp tác và phát triển. Trong khi nhận rõ hợp tác và phát triển là xu thế, nhưng đồng thời cũng không mơ hồ chỉ thấy hợp tác một chiều. Hợp tác phải đi đôi với đấu tranh, cạnh tranh để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia; đồng thời, đấu tranh, cạnh tranh để hợp tác, không dẫn tới đối đầu.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đón và hội đàm với Tổng thống Mỹ D. Trump, nhân chuyến thăm tới Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên lần thứ hai _Ảnh: TTXVN

Kiên quyết, kiên trì là một trong những phương châm, định hướng quan trọng mà Đảng ta lần đầu tiên chỉ rõ trong Đại hội XII của Đảng, đó là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”(4). Lịch sử cho thấy, giữa các quốc gia láng giềng thường có những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích hoặc tranh chấp lãnh thổ do lịch sử để lại. Giải quyết các vấn đề đó phải có sự nỗ lực và thiện chí của tất cả các bên liên quan bằng nhiều phương án, giải pháp lâu dài. Do vậy, cần nhất định phải kiên quyết, kiên trì. Đây cũng là vấn đề mang tính nguyên tắc đặt ra đối với nhiệm vụ đối ngoại là “giữ vững môi trường hòa bình”, “bảo vệ vững chắc Tổ quốc”. Nếu giữ vững được môi trường hòa bình, chúng ta sẽ thêm bạn, bớt thù, đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và giữ nước từ khi nước chưa nguy.

4- Về hội nhập quốc tế.

Thứ nhất, quan điểm về hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế là nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ đối ngoại. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(5). Đảng ta coi hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, hội nhập kinh tế là trọng tâm, từng bước mở rộng hội nhập các lĩnh vực khác, tuân thủ nghiêm các cam kết quốc tế đi đôi với chủ động, tích cực tham gia xây dựng, thực hiện các chuẩn mực chung bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.

Thứ hai, về hình thức và nội dung hội nhập quốc tế. Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn các đặc điểm của môi trường quốc tế cũng như các hệ thống công cụ, quyền lực được sử dụng để chi phối, kiểm soát trong quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế không giới hạn trong một phạm vi, một lĩnh vực nào của đời sống quốc tế mà được lan tỏa ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Tham gia mọi mặt đời sống quan hệ quốc tế là phải tham gia các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc nói chung, vừa là nhu cầu nội tại của mỗi nước, trong đó có Việt Nam.

Thứ ba, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Đảng ta ngày càng nhận thức rõ, trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề bức thiết đặt ra là phải giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước, phải xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đây là mối quan hệ cơ bản, đa diện, đa chiều trong khi tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Việc ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới càng đòi hỏi việc giải quyết, xử lý mối quan hệ này một cách bài bản, linh hoạt và hiệu quả.

Phải giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước, xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chứng kiến Lễ ký Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA)) _Ảnh: TTXVN

Triển khai đồng bộ nhiệm vụ của công tác đối ngoại

Triển khai đồng bộ nhiệm vụ của công tác đối ngoại vì mục tiêu tối thượng là lợi ích quốc gia - dân tộc do Cương lĩnh của Đảng đề ra, trong gần 30 năm qua, đặc biệt là 10 năm gần đây, chúng ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Cụ thể là:

Bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta đã mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia; phá vỡ thế bao vây, cấm vận thời kỳ đầu khi thực hiện Cương lĩnh; bình thường hóa, thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước; tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế để phát triển; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với việc phối hợp triển khai nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, công tác đối ngoại tham gia tích cực vào việc giữ vững và xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng; kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích quốc gia trên Biển Đông, không để các tranh chấp leo thang thành xung đột. Thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, chúng ta đã đấu tranh kiên quyết trong vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, kịp thời xử lý các khía cạnh đối ngoại phức tạp, góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu.

Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị, tiếp tục từng bước đưa quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định hơn. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 13 nước. Về đối ngoại Đảng, Đảng ta đã thiết lập quan hệ với 254 chính đảng ở 114 quốc gia trên toàn thế giới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống chính trị khu vực và thế giới.

Củng cố và tăng cường quan hệ với các nước.

Với các nước láng giềng, quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào tiếp tục được củng cố và có những bước phát triển, ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, thiết thực. Quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia được củng cố và tăng cường về nhiều mặt. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có những bước phát triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, thương mại.

Đối với các nước trên thế giới, Việt Nam đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Mỹ, đưa quan hệ Việt Nam - Mỹ không ngừng tiến triển; quan hệ kinh tế phát triển nhanh, quan hệ an ninh, quân sự từng bước được thiết lập; hợp tác khoa học - kỹ thuật, giáo dục, y tế không ngừng mở rộng. Việt Nam đưa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Liên bang Nga đi vào hoạt động thực chất, hiệu quả, cùng có lợi. Việt Nam cũng thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng với Nhật Bản bằng những hành động cụ thể. Bên cạnh đó, tăng cường hợp tác với Ấn Độ, đưa quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước đi vào chiều sâu, thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam đẩy mạnh hợp tác với Liên minh châu Âu (EU), chủ động tham gia hợp tác với EU trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM).

Đối với hợp tác khu vực, Việt Nam chủ động tham gia việc liên kết khu vực Đông Á; tích cực tham gia và đóng góp hiệu quả cho việc hình thành Cộng đồng ASEAN, tạo dựng hình ảnh Việt Nam là thành viên tích cực trong nhận thức của các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế. Việt Nam tham gia tích cực, có trách nhiệm các định chế đa phương quốc tế, như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên để nâng cao vị thế quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam.

Hội nhập quốc tế sâu rộng.

Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược quan trọng với sự phát triển và an ninh của đất nước, đưa các quan hệ đã xác lập vào thực chất, hiệu quả. Chủ động, tích cực tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế khu vực và đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học  - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến, khai thác hiệu quả các thỏa thuận đã được ký kết, đặc biệt là các thỏa thuận về khu vực mậu dịch tự do. Việc thúc đẩy và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế góp phần thiết thực cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu được đẩy mạnh tăng cường, góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa - chiến lược của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á, Đông Á, châu Á - Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn cầu. Việt Nam đã trở thành một quốc gia tích cực tham gia tiến trình hội nhập quốc tế, chủ động đề xuất sáng kiến, thúc đẩy các liên kết. Việt Nam cũng chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu, trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trong cộng đồng quốc tế.

Hội nhập quốc tế là một trong những lĩnh vực của công tác đối ngoại được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng và thực chất. Thành công của hội nhập kinh tế tạo nền tảng để hội nhập chính trị. Ngược lại, kết quả của hội nhập chính trị sẽ thúc đẩy hội nhập kinh tế và hội nhập các lĩnh vực khác. Hội nhập trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh là một trong những nhiệm vụ quan trọng vừa phục vụ và hỗ trợ cho các chủ trương, chính sách hội nhập toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, vừa phục vụ cho sự phát triển của các ngành liên quan trong bối cảnh môi trường an ninh - quốc phòng trên thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp. Hội nhập trên lĩnh vực văn hóa - xã hội của nước ta với cộng đồng quốc tế được đẩy mạnh, đa dạng về hình thức, phương thức, đối tác, đi vào chiều sâu thực chất và có chuyển biến về chất lượng, thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều hơn.

Thành công của hội nhập quốc tế trong những năm qua, nhất là trong 10 năm trở lại đây, đã tạo ra những cơ hội, những tiền đề để chúng ta giữ vững độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội đến quốc phòng, an ninh. Hội nhập quốc tế trở thành một trong những động lực quan trọng để chúng ta phát triển đất nước, tăng cường nguồn lực cho phát triển, củng cố độc lập, tự chủ.

Những vấn đề đặt ra và giải pháp

Trong thời gian tới, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, tác động nhiều mặt đến môi trường đối ngoại của Việt Nam, đặt ra một số vấn đề hệ trọng cần được nhận biết và giải quyết.

Một là, việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc gặp nhiều trở ngại hơn do sự phức tạp của các lợi ích đan xen trong cộng đồng quốc tế.

Lợi ích quốc gia - dân tộc bao gồm nhiều yếu tố, như lợi ích chính trị, kinh tế, văn hóa  - xã hội, quốc phòng - an ninh. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác, phát triển là xu thế chung, các quốc gia lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, có chế độ chính trị - xã hội khác nhau đều chấp nhận cùng chung sống. Sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia ngày càng tăng lên, các nước đều chịu ràng buộc bởi luật chơi chung, mỗi quốc gia không còn là một cá thể biệt lập mà phải gắn bó với nhau trong các mối quan hệ, liên kết, hợp tác và cả cạnh tranh, xung đột do sự đan xen cùng chiều và khác biệt về lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong quan hệ phức tạp đó, quyết định và hành động của một quốc gia này, dù chỉ mang tính chất nội bộ, có khi cũng tạo ra các hậu quả trực tiếp và gián tiếp đến lợi ích của các quốc gia khác. Việc quốc gia nào đó kiên quyết theo đuổi lợi ích vị kỷ của mình sẽ dẫn tới tình trạng căng thẳng, đối đầu.

Hai là, nhiều khó khăn, vướng mắc khi đẩy mạnh quan hệ quốc tế sâu rộng nhưng phải bảo đảm độc lập, tự chủ và bảo vệ chế độ của chúng ta.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu bất di, bất dịch được xác định trong nhiệm vụ đối ngoại. Hiện nay về cơ bản, Việt Nam tham gia đầy đủ các tầng nấc trong quan hệ quốc tế, triển khai mạnh mẽ liên kết với các đối tác song phương, đa phương, khu vực và toàn cầu trong các lĩnh vực kinh tế và nhiều phương diện đời sống xã hội. Để thực hiện các cam kết theo thông lệ quốc tế, chúng ta phải chấp nhận những giới hạn nhất định trong việc tự chủ về chính sách đối nội và đối ngoại, đôi khi phải điều chỉnh luật pháp, chính sách cho phù hợp. Việc tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực cũng như triển khai các văn kiện hợp tác, các cam kết quốc tế đem lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế quốc gia, nhưng cũng đưa tới sự ràng buộc trong cách ứng xử của ta. Có thể thấy, các mặt trái tác động từ bên ngoài đi liền với nhịp độ tăng cường quan hệ sâu rộng có thể làm tăng nguy cơ các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tình hình đó để tác động vào nước ta, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Ba là, việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của Việt Nam đang gặp những xu hướng bất lợi nổi lên, như chủ nghĩa bảo hộ, sự suy giảm chủ nghĩa đa phương và làm chậm tiến trình toàn cầu hóa.

Đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế phát triển và chủ nghĩa đa phương với hệ thống luật pháp quốc tế được hình thành là nền tảng quan trọng để mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập, phát triển, tránh được sự lôi kéo, ràng buộc của các nước lớn. Tuy nhiên, hiện nay, trên thế giới đang xuất hiện một số biểu hiện mới, như chủ nghĩa dân túy, bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chính trị cường quyền, đòi hỏi của một số nước lớn điều chỉnh, thay đổi trật tự thế giới. Tất cả những vấn đề trên đặt ra đối với nước ta một cách trực tiếp và nổi cộm.

Bốn là, yêu cầu nâng tầm nội lực để tiếp thu và tận dụng nguồn lực đang ngày càng tăng lên trong khi khả năng của chúng ta còn hạn chế.

Nội lực là vấn đề quan trọng hàng đầu, quyết định chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ đối ngoại. Để phát triển nội lực, nâng cao vị thế của đất nước và năng lực triển khai công tác đối ngoại, vấn đề mới đặt ra là tận dụng hiệu quả các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA)...; tuy nhiên, trong quá trình triển khai, có nhiều nội dung và yêu cầu chưa có tiền lệ, đòi hỏi chúng ta phải có sự chuẩn bị hết sức tích cực trong nội bộ, từ các ngành, các cấp ở Trung ương đến các địa phương, đơn vị, các doanh nghiệp. Chỉ có sự chuẩn bị thật thấu đáo mới có thể tận dụng tối đa lợi ích từ những FTA này, giảm thiểu những mặt trái, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế của đất nước.

Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực (liên doanh giữa Tập đoàn Ô tô Ford của Mỹ và Công ty Diesel Sông Công) _Ảnh: TTXVN

Những biểu hiện khác đang gia tăng mạnh mẽ trên thế giới như cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, phát triển không gian mạng, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc đang mang lại những thời cơ mới cũng như thách thức mới đối với các nước. Do vậy, cần nhận thức đúng tình hình để tập hợp lực lượng, nâng tầm năng lực tổng thể của đất nước mới có thể tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, làm tròn nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới.

Như vậy, trước những thách thức đặt ra, công tác đối ngoại trong thời gian tới cần nhấn mạnh:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, thực hiện tốt phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “ngũ tri” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết tiến, biết lui).

Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước là cội nguồn của mọi thắng lợi của nhiệm vụ đối ngoại. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước, Việt Nam cần có những quyết sách đúng đắn, bước đi thích hợp để thực hiện tốt nhiệm vụ đối ngoại, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng tầm vị thế của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”, “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Điều quan trọng là phải đánh giá đúng tình hình quốc tế và sự tác động đối với nước ta, cả mặt thuận lợi và mặt bất lợi.

Vận dụng phương châm “ngũ tri” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết tiến, biết lui) trong công tác đối ngoại là cần thiết trong tình hình hiện nay. “Biết mình” là hiểu rõ lợi ích của đất nước, của quốc gia và tiềm lực tổng hợp, những điểm mạnh và điểm yếu của mình để dự liệu cho các quan hệ với đối tác. “Biết người” là đánh giá đúng lợi ích, mục đích, khả năng, phương thức thực hiện lợi ích của đối tác. “Biết thời thế” là nắm chắc, dự báo đúng tình hình quốc tế, khu vực để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức. “Biết tiến” đúng lúc để tận dụng cơ hội. “Biết lui” đúng lúc để tìm phương thức xử lý thích hợp.

Kiên định và đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia - dân tộc.

Đảng ta xác định “bảo đảm lợi ích quốc gia  - dân tộc” là kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại. Lợi ích quốc gia là hằng số, mọi vấn đề liên quan đến nhiệm vụ công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế đều được soi chiếu dưới lăng kính khách quan. Một mặt, thực hiện nhiệm vụ đối ngoại là vì lợi ích quốc gia  - dân tộc; mặt khác, phải lấy lợi ích quốc gia - dân tộc là điểm xuất phát, là động lực, là đích để hướng tới. Phải phòng, tránh mọi hành vi vì lợi ích cục bộ mà bỏ qua lợi ích quốc gia, dân tộc; trái lại, phải coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng, chi phối mọi hành động, giải pháp khi thực thi nhiệm vụ đối ngoại.

Tăng cường thực lực sức mạnh quốc gia.

Nâng cao thực lực sức mạnh quốc gia là yếu tố quyết định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đối ngoại. Thực lực sức mạnh quốc gia bao gồm sức mạnh cứng và sức mạnh mềm. Sức mạnh cứng là làm sao để chúng ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trở thành một mắt xích quan trọng trong các liên kết kinh tế chủ yếu của khu vực và toàn cầu. Sức mạnh mềm là tận dụng tốt vị trí địa - chiến lược, khả năng dự báo, đoán định đúng tình hình để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, yêu chuộng hòa bình, công lý, có uy tín và có trách nhiệm với cộng đồng, sẵn sàng tham gia và giải quyết hiệu quả các vấn đề quốc tế.

Thực lực của ta là sức mạnh tổng hợp mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh; là giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội; kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững; quốc phòng và an ninh vững mạnh; thực lực là tổng thể sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Việc thực hiện tốt công tác đối ngoại cũng trở thành một nguồn sức mạnh quốc gia./.

----------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,  2011, tr. 83 – 84
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 236
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 153
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 33
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 154