Nguồn lực và động lực cho phát triển là vấn đề rất rộng lớn, trong tham luận này, chúng tôi chỉ phát biểu từ góc nhìn quản trị địa phương Quảng Ninh, cụ thể là hơn là quản trị nguồn lực và động lực phát triển.

Nguồn lực là tất cả các yếu tố đầu vào được đưa vào sử dụng hoặc dữ trữ sẵn sàng sử dụng phục vụ cho sản xuất, phát triển một doanh nghiệp, một địa phương hoặc rộng hơn là cả đất nước. Theo cách hiểu đó, với Quảng Ninh, nguồn lực chính là toàn bộ điều kiện địa lý tự nhiên gắn với hình thái lãnh thổ (các tiểu vùng, đất liền và biển đảo, nông thôn và đô thị, vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long...), tài nguyên tự nhiên (khoáng sản, rừng, giống cây con bản địa...), tài nguyên nhân văn (con người, văn hoá), nguồn vốn tài chính… Còn động lực là sức mạnh hình thành từ những động cơ thúc đẩy tìm kiếm các nguồn lực, cách thức phát triển đem lại các lợi ích vật chất hoặc thỏa mãn các nhu cầu tinh thần mà đặc trưng cơ bản của nó là khát vọng cống hiến và sự thôi thúc mãnh liệt về giá trị theo đuổi. Theo nghĩa đó, động lực bao gồm cơ chế kích thích lợi ích vật chất như cạnh tranh, thi đua, khen thưởng; phát huy các giá trị văn hoá - tinh thần, chính trị - tinh thần, như niềm tin, ý chí, bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, khát vọng phát triển gắn với cơ chế kích hoạt năng lượng thần kinh, làm cho các giá trị văn hoá - tinh thần, chính trị - tinh thần trở thành động năng cho phát triển. Động lực còn thể hiện ở chuyển tải ý chí, niềm tin, khát vọng, trí tuệ, giá trị đạo đức vào thể chế, chính sách, các quyết định lãnh đạo - quản lý vào thành tựu khoa học - công nghệ làm chuyển hoá, tái tạo nguồn lực để tạo nên động lực vật chất hoặc tinh thần mới, biến tiềm năng thành động năng, như hình thành các hệ giao thông động lực kết nối, tổ chức lại không gian lãnh thổ, kiến tạo các hành lang phát triển mới... làm cho nguồn lực tự nhiên tăng giá trị theo cấp số nhân khi được kết nối, liên kết.

Trên ý nghĩa đó, từ thực tiễn Quảng Ninh, động lực và nguồn lực quyện chặt nhau, chuyển hoá cho nhau.

1. Nguồn lực được khơi thông, biến tiềm năng thành hiện thực khi nhận diện được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức trên cơ sở đó can thiệp thể chế để tổ chức lại không gian lãnh thổ, kiến tạo hành lang phát triển mới, xác định các hướng đột phá chiến lược, các trọng tâm, trọng điểm để huy động nguồn lực đủ mức và tập trung ý chí, quyết tâm hoàn thành mục tiêu đúng kế hoạch. Với Quảng Ninh, điều đó thể hiện ở nhận diện 4 mâu thuẫn, thách thức đòi hỏi năng lực tư duy cao hơn, nghệ thuật xử lý tốt hơn, không thể chủ quan, tự mãn: Giữa khai thác than, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phát triển công nghiệp nặng xung đột với phát triển du lịch, dịch vụ trên cùng một địa bàn; giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế với  bảo đảm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ khu vực biên giới; giữa bảo đảm phát triểnbền vững với hóa giải những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, của thách thức an ninh phi truyền thống; giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa với phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh, bảo vệ môi trường; giữa tăng trưởng kinh tế nhanh  với bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Và chỉ ra yêu cầu tổ chức lại không gian phát triển theo “một tâm, hai tuyến đa chiều, hai mũi đột phá, ba vùng động lực”(1], hướng tới xây dựng thành thành phố trực thuộc Trung ương và thúc đẩy liên kết nội vùng, liên kết vùng, phân công và hợp tác lãnh thổ, bảo đảm các tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh từng địa phương trong tam giác động lực phía Bắc, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng được phát huy tối đa, bổ sung cho nhau mà ở đó Quảng Ninh có một vị trí, vai trò ngày càng quan trọng. Không định hình được điều đó tức không rõ triết lý phát triển, không rõ đâu là yếu tố động lực đầu tàu, đâu là yếu tố đòn bẩy và lợi thế so sánh từng tiểu vùng không được phát huy đúng đắn, đầy đủ, bổ sung cho nhau, không chuyển hóa được nguồn lực và thiếu động mới cho phát triển.

2. Điều kiện địa lý, đất đai, tiềm năng, lợi thế so sánh từng tiểu vùng,… với tư cách là chỉ tạo được giá trị tăng khi được kết nối, dựa trên cơ sở đẩy nhanh phát triển, hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Trọng tâm ưu tiên là phát triển hạ tầng giao thông chiến lược kết nối vùng, liên vùng, nội vùng, công nghệ thông tin, viễn thông, cảng biển và dịch vụ cảng biển, hạ tầng logistics, hạ tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế, đô thị(2). Cụ thể hơn, hệ thống hạ tầng giao thông chiến lược, logictics ở Quảng Ninh hình thành trong mấy năm qua, bản thân nó là thành quả từ sự kết nối nguồn lực nhà nước và nguồn lực ngoài khu vực nhà nước thông qua thúc đẩy quan hệ đối tác công tư, “đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”. Phải có một ý chí, bản lĩnh cao mới bảo đảm huy động nguồn lực tập trung đủ mạnh, kịp thời cho đẩy nhanh phát triển hạ tầng giao thông chiến lược mà thông thường chúng dễ bị phân tán, níu kéo bởi các lợi ích cục bộ. Khi giao thông hình thành sẽ kết nối các vùng, tiểu vùng, giúp chuyển hoá tiềm năng thành nguồn lực, đặc biệt thúc đẩy vốn hoá đất đai mà hệ thống giao thông đem đến, kiến tạo phát triển theo triết lý “đại lộ - đại phú, trung lộ - trung phú, tiểu lộ - tiểu phú”. Ngay kể cả giao thông kéo đến đâu thì tư duy, tập quán, thói quen tiểu nông của người dân thay đổi nhờ giao thương, giao lưu văn hoá được thúc đẩy.

Giao thông và hạ tầng chiến lược khi được hiện đại hoá giúp tối ưu hoá khai thác, sử dụng nguồn lực cả vùng, thúc đẩy kết nối vùng. Vì vậy, Quảng Ninh cùng các tỉnh, thành lân cận (Hải Phòng, Hải Dương) luôn tìm cách kết nối, chia sẻ nguồn lực chung, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh làm triệt tiêu lợi ích chung của vùng và của đất nước.

3. Văn hoá - tinh thần ở Quảng Ninh được phát huy ở cả khía cạnh động lực và nguồn lực. Với phương diện là động lực tồn tại dưới dạng niềm tin, khát vọng, truyền thống văn hoá vùng Mỏ, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần cộng đồng, nó được chuyển hoá vào khát vọng mãnh liệt về phát triển, không lùi bước trước khó khăn, quyết tâm cao, hành động quyết liệt để đạt bằng được mục tiêu đã đề ra khi đã thống nhất, quyết nghị. Niềm tin, khát vọng đó thể hiện trước hết trong đội ngũ lãnh đạo, vì nó có tính dẫn dắt, định hướng cho nhân dân. Truyền thống, giá trị văn hoá đó khi lan toả trong toàn dân thì tạo nên sức mạnh to lớn dựa trên đoàn kết và đồng thuận xã hội, nhất là Quảng Ninh luôn đối mặt với những vấn đề mới, những đột phá chiến lược, nếu không kiến tạo được niềm tin dễ gây hoài nghi trong nhân dân, phân tâm xã hội.

Với phương diện là nguồn lực cho phát triển, các di sản văn hoá, tài nguyên văn hóa được “nguồn lực hoá”, “vốn hoá” phục vụ cho phát triển du lịch dựa vào động lực cơ chế thị trường. Trên 600 di tích văn hoá - lịch sử được quy hoạch, tổ chức lại mô hình quản trị để phục vụ có hiệu quả cho du lịch, cùng với di sản tự nhiên vịnh Hạ Long trở thành những biểu tượng “sức mạnh mềm” để thu hút du khách. Bảo tàng Quảng Ninh là đơn vị duy nhất trong cả nước chuyển đổi thành công mô hình hoạt động như doanh nghiệp về quản trị, có cả bộ phận maketing, tiếp thị, hoàn toàn tự chủ tài chính… là một ví dụ về nguồn lực hoá các giá trị văn hoá bằng động lực của cơ chế thị trường. Quảng Ninh cũng là địa phương đi đầu cả nước về phát triển các sản phẩm OCOP (mỗi xã/phường một sản phẩm), mà kết tinh trong giá trị gia tăng của từng sản phẩm bán trên thị trường chính là cái độc đáo của tri thức bản địa, bản sắc văn hoá. Đó là chưa nói các sản phẩm ẩm thực, mỗi địa danh, di tích chỉ có sức hấp dẫn du khách khi làm bật dậy, sống động các giá trị văn hoá, khẳng định bản sắc văn hoá dân tộc và văn hoá địa phương. Quá trình chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” theo hướng bền vững dựa vào ba trụ cột: thiên nhiên, con người, văn hóa, kết hợp với tận dụng xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập, cơ hội mới và công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại và tham gia sâu rộng, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu... giúp tỉnh Quảng Ninh từng bước hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm công nghiệp dịch vụ, công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí dựa trên nền tảng công nghiệp sáng tạo được tổ chức ở trình độ cao của cả nước.

4. Thể chế địa phương là động lực chính trị - tinh thần mang tính quyết định cho phát triển, làm chuyển hoá các nguồn lực từ tiềm năng thành động năng; làm cho các nguồn lực vô hình được phát lộ, “vật chất hoá”, “vốn hoá” phục vụ cho phát triển; làm cho nguồn lực nhà nước và nguồn lực ngoài nhà nước được kết nối khéo léo, tạo ra sức mạnh cộng hưởng cho phát triển theo phương châm “đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”; làm hoá giải các thách thức, thậm chí biến thách thức thành cơ hội cho phát triển; làm cho nguồn lực mang tính “mở” và “động” được thúc đẩy bởi sức hấp dẫn của các chính sách thu hút nguồn lực đầu tư, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; đột phá vào tháo gỡ các rào cản, nút thắt nhằm khơi thông, giải phóng các nguồn lực, làm cho nguồn lực được vận động, dịch chuyển, chuyển hoá không ngừng; làm cho các nguồn lực vận hành bị kiểm soát một cách có đạo đức, đúng mục tiêu, thể hiện ý chí của chủ thể lãnh đạo, quản lý, không để vận động tự phát thuần tuý theo cơ chế thị trường gây nhiều hệ luỵ khôn lường.

Chính vì vậy, những năm qua, Quảng Ninh đã tập trung xây dựng nền quản trị địa phương hiện đại, tự chủ, năng động, hiệu quả, nhất là xác định các nghị quyết của cấp uỷ, hội đồng nhân dân, quyết định lãnh đạo, quản lý đột phá vào các nút thắt, điểm nghẽn, xử lý 4 mâu thuẫn cơ bản đã xác định, biến thách thức thành cơ hội. Đặc biệt là tập trung cải cách nền hành chính quản lý - quản trị - kiến tạo phát triển, phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội; giảm tối đa rủi ro pháp lý, chi phí hành chính và tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, công khai, minh bạch, tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng; nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, chất lượng thực thi chính sách, pháp luật; hằng năm, giữ vững vị trí nhóm đầu cả nước về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) và Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI).

Trong bối cảnh những vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống sẽ có diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, ở cả quy mô cấp tỉnh, vùng, toàn quốc và toàn cầu, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới sự phát triển của địa phương, mà đại dịch COVID-19 là một điển hình, quản trị địa phương phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng, tình thế phức tạp chưa có tiền lệ, tính bất định rất cao, đòi hỏi tốc độ phản ứng rất nhanh, hành động rất quyết liệt. Nếu sử dụng cách thức quản trị theo lối mòn thông thường để xử lý các vấn đề cấp bách, đột xuất, bất ngờ phát sinh trong bối cảnh có những biến cố lớn tất yếu sẽ rơi vào thế bị động, chậm, lúng túng, không những không ngăn chặn được khủng hoảng mà thậm chí còn làm khủng hoảng thêm trầm trọng, đẩy các mâu thuẫn, xung đột, bất ổn, rủi ro lên cao, có thể gây nên những hệ lụy khôn lường, hậu quả nặng nề.

Đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản trị xã hội, quản lý nhà nước, quản trị địa phương, năng lực thích ứng với sự thay đổi, lãnh đạo, quản trị rủi ro của các ngành, các cấp, nhất là cấp cơ sở; chuyển nhanh từ nhận thức đến hành động trong chỉ đạo, điều hành và thực thi chính sách, pháp luật bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, ứng phó kịp thời; phải linh hoạt, nhạy bén, quyết sách kịp thời và xử lý có hiệu quả với mọi tình huống đột xuất, bất ngờ trên các lĩnh vực. Năng lực phản ứng chính sách nhanh nhạy, linh hoạt, hiệu quả vẫn là một yếu tố cốt lõi của năng lực quản trị địa phương; cần xây dựng chu trình quản trị, quy trình quản trị, nhất là trước những khủng hoảng, tình huống đột xuất, bất ngờ.

Luôn luôn đổi mới tư duy phát triển, bám sát thực tiễn, nắm chắc tình hình, trăn trở tìm ra điểm nghẽn, tìm ra động lực, nguồn lực mới để lựa chọn đúng, trúng nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá gắn với tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tập trung nguồn lực đủ mạnh để vận dụng, đổi mới, sáng tạo trong tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao, tạo hiệu ứng lớn, giải quyết dứt điểm các mục tiêu đề ra ở từng bước đi với các công cụ đo lường kết quả cụ thể.

5. Con người vừa là nguồn lực, vừa là động lực, bảo đảm cho nguồn lực chuyển thành động lực cho phát triển, nhất là nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý chất lượng cao thể hiện ở trình độ, ý chí, bản lĩnh, đủ năng lực phát hiện, tác động làm biến chuyển mọi tiềm năng thành hiện thực, nếu không tiềm năng mãi mãi vẫn là tiềm năng; làm chuyển hóa thách thức thành cơ hội, bởi nếu để thách thức lớn rần lên sẽ tước mất luôn cơ hội. Vì thế, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và lao động có kỹ năng gắn với nhanh chóng tăng quy mô và nâng cao chất lượng dân số đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của tỉnh là khâu đột phá, cấp bách; gắn chặt với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị là nhân tố quyết định sự thành công trước mắt và chiến lược.

Trong tất cả các mô hình tăng trưởng - phát triển, con người luôn là chủ thể trung tâm. Nhân tố con người với những giá trị văn hóa, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội, đạo đức nghề nghiệp, nhân cách, lối sống, khát vọng phát triển, năng lực đổi mới sáng tạo, tự chủ; tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, thể chất, kỹ năng sống, năng lực liên kết, hợp tác và hội nhập… là tâm điểm quy tụ tất cả các yếu tố vật chất và phi vật chất, giá trị văn hóa, khoa học - công nghệ, để tạo thành động lực, nguồn lực phát triển nhanh và bền vững.

6. Động lực được tạo ra từ doanh nghiệp và khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển sản phẩm chủ lực và xây dựng thương hiệu của tỉnh, tạo sự liên kết giữa các thành phần kinh tế. Bản chất là phát huy các động lực lợi ích, cơ chế thị trường để khơi thông, giải phóng nguồn lực trong tư nhân để các nhà đầu tư chiến lược đến Quảng Ninh đầu tư dài hạn, nhờ đó các nguồn lực vốn, trí tuệ, kinh nghiệm quản lý, khoa học - công nghệ, thương hiệu của doanh nghiệp được phát huy, các tiềm năng của địa phương phải thông qua vai trò doanh nghiệp mới được hiện hữu, vốn hoá, kết nối vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị mà từng doanh nghiệp đã thiết lập lâu dài trước đó. Khi thu hút được các nhà đầu tư chiến lược sẽ tạo sức hút mới, làm cho Quảng Ninh hội tụ được nguồn lực dịch chuyển từ nơi khác và trở thành một cực tăng trưởng của khu vực phía Bắc,  nhất là thu hút nguồn vốn, công nghệ, lao động chất lượng cao. Bản thân nguồn lực khoa học - công nghệ cũng chỉ được ứng dụng hiệu quả gắn với vai trò của doanh nghiệp khi họ tìm cách nâng năng suất, hạ giá thành, sức cạnh tranh, tạo ra sản phẩm thân thiện môi trường..., mà ứng dụng công nghệ là nhu cầu tự thân, tất yếu.

7. Nhân dân Quảng Ninh với tinh thần đoàn kết, niềm tin sâu sắc vào các quyết định của cấp uỷ, chính quyền, sẵn sàng hành động bằng quyết tâm cao, có ý thức chia sẻ cộng đồng những lúc khó khăn như phòng, chống dịch COVID-19 vừa qua, trở thành động lực to lớn và cũng là nguồn lực vô tận. Động lực từ nhân dân chỉ được khơi dậy khi có chính sách đúng đắn tôn trọng, kích thích các lợi ích chính đáng hoặc kích hoạt các giá trị truyền thống tốt đẹp, làm cho mỗi người, mỗi gia đình sẵn sàng hưởng ứng các chủ trương giải phóng mặt bằng trong thời gian nhanh, đóng góp tiền của, đất đai, ngày công lao động mà không tính toán thiệt hơn. Tiềm năng từ trong dân là rất lớn, phải bằng những chính sách đúng đắn mới có thể khai thác, phát huy đầy đủ. Thời gian qua, với tốc độ đô thị hoá, đẩy mạnh công nghiệp hoá, bằng nhiều chính sách tổng hợp, đa dạng đã làm cho sức dân được phát huy, nhất là trong giải phóng mặt bằng, xây dựng giao thông nông thôn, phòng, chống COVID-19. Còn về phía cấp uỷ và chính quyền phải có quan điểm hài hoà giữa khai thác sức dân và bồi dưỡng sức dân, như bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống văn hoá - tinh thần, đầu tư phát triển hệ thống các trường học hiện đại xứng tầm tiêu chuẩn quốc tế… Chỉ xin đơn cử, trong khi ở nhiều nơi đô thị hoá, mở đường giao thông ven biển đã biến các bãi tắm công cộng thành nơi kinh doanh thuần tuý của doanh nghiệp thì Quảng Ninh luôn duy trì các không gian công cộng như là phúc lợi phi thu nhập mà người dân xứng đáng được thụ hưởng, bảo đảm hài hoà giữa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích công cộng.

Việc khai thác, phát huy và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực tại chỗ đặt trong tổng thể mô hình quản trị địa phương phát triển bền vững của tỉnh Quảng Ninh trước bối cảnh thích ứng an toàn chuyển hóa thành những kết quả nổi bật. Năm 2021, tỉnh hoàn thành 12/12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đề ra, trong đó GRDP đạt 10,28%, đứng thứ hai trong cả nước; giữ vững đà tăng trưởng hai con số trong 6 năm liên tiếp giai đoạn 2016 - 2021. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 52.467 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu Trung ương giao và dự toán đầu năm, trong đó thu nội địa đạt trên 42.000 tỷ, thuộc nhóm 5 địa phương dẫn đầu cả nước. Năm 2021, quy mô nền kinh tế của Quảng Ninh đạt 238.186 tỷ đồng, gấp 4,32 lần so với năm 2010. GRDP bình quân đầu người trên 7.600 USD....

Không chủ quan, thỏa mãn với kết quả bước đầu đạt được, luôn chủ động nhận ra và quyết tâm, quyết liệt giải quyết các mâu thuẫn, thách thức nảy sinh trong quá trình phát triển, năm 2022, tỉnh Quảng Ninh xác định chủ đề công tác năm là: “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19; giữ vững đà tăng trưởng; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”, với mục tiêu giữ vững tăng trưởng hai con số trong 7 năm liên tiếp; giữ vững vị trí nhóm đầu cả nước về các Chỉ số PCI, PAR Index, SIPAS, PAPI; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn không thấp hơn 52.600 tỷ đồng, trong đó thu ngân sách nội địa phấn đấu mức tăng cao nhất; thu hút FDI đạt ít nhất 1,5 tỷ USD; hoàn thành và triển khai nhiều công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, mở ra các động lực, dư địa phát triển mới…

Là một tỉnh biên giới, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh luôn có thể xuất hiện thêm những vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống phức tạp, khó lường, ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới sự phát triển bền vững của địa phương, mà đại dịch COVID-19 là một điển hình. Chính vì vậy, hoạt động quản trị địa phương phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng, tình thế phức tạp chưa có tiền lệ, tính bất định rất cao, đòi hỏi tốc độ phản ứng rất nhanh, hành động rất sáng tạo và quyết liệt. Qua quá trình xây dựng, phát triển của tỉnh Quảng Ninh thời gian qua, từ thực tiễn thực thi các chủ trương, chính sách, chúng tôi nhận thấy việc khai thác, phát huy và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực tại chỗ đặt trong tổng thể mô hình quản trị địa phương phát triển bền vững của tỉnh Quảng Ninh trước bối cảnh thích ứng an toàn là một vấn đề lý luận và thực tiễn mới ở Việt Nam nói chung và với Quảng Ninh nói riêng. Nguồn lực và động lực phát triển địa phương bền vững là một chủ đề cần được thảo luận và phản biện từ các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và cộng đồng doanh nghiệp. Các ý kiến đóng góp của các đại biểu là cơ sở để tỉnh Quảng Ninh có những luận cứ, luận chứng khoa học - thực tiễn quan trọng, phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, đồng thời góp phần vào việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, xây dựng nền quản trị địa phương hiện đại, hiệu quả./.

-----------------------------

[1]. Tâm là thành phố Hạ Long, trung tâm chính trị - hành chính - kinh tế - văn hóa của Tỉnh; phát triển đô thị theo mô hình đa cực, lấy vịnh Cửa Lục làm trung tâm kết nối, mở rộng đô thị về phía Bắc. Tuyến hành lang phía Tây xuất phát từ Hạ Long đến Đông Triều hướng tới đồng bằng sông Hồng và thủ đô Hà Nội; phát triển chuỗi đô thị - công nghiệp xanh, công nghiệp sạch, công nghệ cao và du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh; trong đó Khu kinh tế ven biển Quảng Yên là hạt nhân, động lực tăng trưởng mới của tuyến phía Tây và của tỉnh, phát triển theo mô hình “Thành phố thông minh” với các khu công nghiệp - dịch vụ - đô thị- cảng biển thông minh, hiện đại, trung tâm công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp công nghệ cao. Tuyến hành lang phía Đông xuất phát từ Hạ Long đến Móng Cái và hướng tới thị trường Đông Bắc Á; phát triển chuỗi đô thị sinh thái - dịch vụ, thương mại, du lịch tổng hợp cao cấp, nông nghiệp sạch - công nghệ cao và kinh tế biển; lấy phát triển công nghiệp để dẫn dắt nông nghiệp. Phát triển Khu kinh tế Vân Đồn và Khu kinh tế Cửa khẩu Móng Cái là hai mũi đột phá. Hình thành ba vùng động lực gồm: (1) Vùng đại đô thị 5 thành phố (Hạ Long, Cẩm Phả, Quảng Yên, Uông Bí, Đông Triều); (2) Vùng đô thị Vân Đồn, Ba Chẽ, Tiên Yên, Cô Tô; (3) Vùng đô thị Móng Cái, Hải Hà, Bình Liêu, Đầm Hà.

[2]. Với quan điểm “Giao thông đi trước một bước”, kiên trì đổi mới phương thức huy động, khơi thông, kết nối nguồn lực “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”, tiết kiệm chi thường xuyên, tăng chi đầu tư phát triển (hằng năm đều đạt trên 53% tổng chi NSĐP); quyết liệt tái cơ cấu đầu tư công bảo đảm tính tập trung cao, đúng trọng tâm, trọng điểm, có tính lan tỏa, đủ sức lôi kéo, dẫn dắt đầu tư ngoài nhà nước, khắc phục tình trạng phân tán, manh mún, kéo dài, dàn trải, lãng phí (số công trình khởi công mới trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2022 - 2026 giảm 87% so với giai đoạn 2016 - 2021). Kiên trì thực hiện có hiệu quả đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP), trung bình cứ 1 đồng ngân sách bỏ ra huy động được 8 - 9 đồng vốn ngoài ngân sách tham gia đầu tư vào Quảng Ninh. Nhờ đó, chỉ tính riêng trong giai đoạn 2014 - 2020 đã huy động được trên 123.000 tỷ đồng vốn (riêng giai đoạn 2020 - 2022 đã huy động  trên 10 nghìn tỷ đồng ngoài ngân sách đầu tư cho lĩnh vực giao thông) đầu tư dành cho phát triển kết cấu hạ tầng, tạo sự bứt phá về hạ tầng giao thông, đô thị, du lịch, dịch vụ, cửa khẩu,...

Với hệ thống kết cấu hạ tầng được ưu tiên đẩy nhanh xây dựng, hoàn thành, hiện đại hóa như đường cao tốc Hải Phòng - Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái, cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, cảng tàu khách quốc tế Hạ Long, đường ven sông 10 làn xe tốc độ cao Quảng Yên - Uông Bí - Đông Triều, các cầu Rừng, Lại Xuân, đường kết nối Hạ Long - Bắc Giang, Hạ Long - Lạng Sơn... đang được đẩy nhanh tốc độ triển khai đã thúc đẩy liên kết vùng, hợp tác hóa lãnh thổ, tạo ra nguồn lực mới, tạo nên những hành lang, không gian phát triển mới, được tính toán, cân nhắc với kiến tạo cảnh quan - kiến trúc công trình mang dấu ấn bản sắc địa phương để phục vụ cho phát triển du lịch và tăng cường năng lực đối trọng xuyên biên giới.