Sức mạnh của niềm tin

Mai Hải Oanh
PGS, TS, Tạp chí Cộng sản
18:23, ngày 09-10-2019

TCCS - Một trong những bài học xương máu sau chính biến ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là việc giữ được niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng Cộng sản. Vì vậy, giáo dục niềm tin đã trở thành một biện pháp quan trọng nhằm góp phần xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo công cuộc đổi mới trong thời kỳ hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức.

Mãi mãi niềm tin theo Đảng _Tác giả: Vũ Trung Duy

Về sức mạnh của niềm tin

Sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu để lại cho chúng ta một bài học xương máu: “Mất niềm tin là mất tất cả”. Chính vì mất niềm tin vào sự lãnh đạo của đảng cộng sản và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mà chỉ sau một đêm, toàn bộ thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội đã bị xóa sạch ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Hậu quả của nó thật khủng khiếp: Đảng cộng sản bị giải tán, đất nước rơi vào khủng hoảng mất phương hướng. Nhớ lại tấn bi kịch này, nhiều chính khách và nhiều trí thức lớn ở Nga đã bày tỏ sự thất vọng và họ tự thấy ấy ân hận, mắc tội về sự tan rã của Liên Xô.


Video: Truyền hình Nhân Dân

Những biến động đổ vỡ trên đây đã ảnh hưởng rất lớn đến bối cảnh chính trị toàn cầu, trong đó có Việt Nam, khiến cho không ít người rơi vào hoang mang, dao động. Tuy nhiên, vượt lên mọi sóng gió, với chủ trương đổi mới đúng đắn, được sự ủng hộ của nhân dân, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Song, những bài học đau đớn của lịch sử vẫn còn nguyên giá trị, nhắc nhở những người cộng sản Việt Nam không được ngủ quên trong chiến thắng. Bên ngoài, các thế lực thù địch chưa hề từ bỏ mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện “diễn biến hòa bình”, kích động lật đổ. Trong nước, một bộ phận không nhỏ đảng viên có biểu hiện suy thoái, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Nhận thức được những nguy cơ làm “chệch hướng”, “đổi màu”, ngay từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VII Đảng ta đã đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó đáng chú ý nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa trong nội bộ”. Mục đích quan trọng nhất của chỉnh đốn Đảng là làm trong sạch Đảng, tăng cường sức mạnh của Đảng và lấy lại niềm tin của nhân dân đối với Đảng, coi sự nghiệp cách mạng của Đảng cũng là sự nghiệp cách mạng của nhân dân, thấu triệt nguyên tắc: do dân và vì dân. Từ thực tiễn cách mạng, Đảng ta nhận thức một cách sâu sắc rằng, sự thành bại của sự nghiệp cách mạng luôn luôn gắn liền với niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng. Muốn dân tin Đảng, Đảng phải coi lợi ích của nhân dân, của đất nước là mục tiêu phấn đấu của mình.

Niềm tin là một phạm trù triết học và là đối tượng nghiên cứu của thần học. Trong Ki-tô giáo, niềm tin gắn liền với ý Chúa và thiên đường. Trong Phật giáo, niềm tin gắn với sức mạnh và sự che chở của Đức Phật toàn năng. Trong tín ngưỡng, niềm tin gắn với sức mạnh siêu nhiên giúp con người vượt lên sợ hãi, đẩy lùi tai họa, hướng tới an yên. Cho dù mỗi tôn giáo, tín ngưỡng có những cách tạo dựng niềm tin riêng, nhưng điểm chung là hướng con người về những niềm tin hư ảo. Tuy nhiên, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, niềm tin tôn giáo vẫn tồn tại bởi trong cuộc sống, con người luôn phải đối mặt với nhiều trớ trêu, nghịch cảnh, và niềm tin vào sức mạnh siêu nhiên chính là nơi con người bấu víu để vượt qua tâm lý sợ hãi, bất lực. Về bản chất, đó là thứ niềm tin mang tính chủ quan, không có cơ sở thực tiễn và không được kiểm nghiệm bằng thực tiễn. Trái ngược với niềm tin tôn giáo, triết học Mác  - Lê-nin đề cao lý tính, coi trọng thực tiễn, coi tri thức của con người là nhân tố cơ bản của niềm tin. Niềm tin ấy có tính khách quan vì đó là niềm tin gắn liền với quy luật phát triển của lịch sử nhân loại. Bởi thế, niềm tin trong triết học Mác khác hẳn với niềm tin tôn giáo. Vì xuất phát từ thực tiễn, được tạo dựng từ thực tiễn nên niềm tin mác-xít gắn liền với lý tưởng cao đẹp và mang tính hiện thực. Nó khác với thái độ cuồng tín, bất chấp thực tiễn. Bản chất của nó là dù gặp phải bất cứ gian nan nguy hiểm nào, vẫn kiên định phấn đấu, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng đã chọn lựa. Vì thế, niềm tin luôn gắn với lý tưởng, trở thành niềm tin lý tưởng. Lý tưởng ở đây là lý tưởng cách mạng, gắn liền với đấu tranh vì hạnh phúc của con người. Niềm tin lý tưởng, trong điều kiện lịch sử cụ thể, chuyển hóa thành niềm tin đối với người lãnh đạo, tổ chức lãnh đạo và học thuyết cách mạng. Đó phải là học thuyết cách mạng nhất và nhân văn nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, muốn giải phóng dân tộc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, trước hết phải tìm thấy lý tưởng và kim chỉ nam hành động. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, tại Pa-ri, Người đã tìm thấy con đường ấy khi đọc Luận cương của Lê-nin về vấn đề giải phóng dân tộc và thuộc địa. Người cho rằng, muốn làm cách mạng trước hết phải có đảng cách mạng chân chính nắm vai trò lãnh đạo. Người khẳng định: “Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(1).

Thực tiễn gần 90 năm qua của cách mạng Việt Nam cho thấy,  Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự đã quy tụ được niềm tin của giai cấp công nhân, của nhân dân Việt Nam. Đây chính là nguyên nhân hết sức quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Tất nhiên, để đạt được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, hướng tới một xã hội tốt đẹp, không có bóc lột, áp bức, bất công là một quá trình hết sức lâu dài và gian khổ. Con đường ấy không bao giờ bằng phẳng mà khúc khuỷu, gập ghềnh. Muốn hoàn thành sứ mệnh của mình, chủ nghĩa xã hội phải thường xuyên tự đổi mới, tự phát triển, tự hoàn thiện;  và với tư cách là người tổ chức, dẫn đường, Đảng phải luôn là người tiên phong, chiếm được niềm tin tuyệt đối của nhân dân, lãnh đạo cách mạng vận hành theo quy luật khách quan. Ngay cả trong những thời điểm khó khăn nhất, khi chủ nghĩa xã hội thoái trào thì mỗi đảng viên phải là một tấm gương sáng, kiên định lập trường, giữ vững niềm tin cách mạng. Chỉ có như thế nhân dân mới thực sự tin Đảng.

Nhìn lại lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày thành lập đến nay, những thành tựu to lớn mà Đảng và nhân dân ta đạt được trong gần chín thập niên qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là Đảng tin dân và dân tin Đảng. Trong những năm đất nước nằm dưới ách nô lệ, dân chính là người che chở, bảo vệ Đảng bởi tin rằng, Đảng là người sẽ đưa dân tộc thoát khỏi xiềng xích nô lệ. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tiền đồ cách mạng đã góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để giải phóng non sông đất nước. Và niềm tin ấy cũng là tiền đề quan trọng để cả nước bắt tay xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Niềm tin của quần chúng nhân dân dành cho Đảng biểu hiện hết sức cụ thể trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, trong sản xuất, chiến đấu, trong khó khăn, hoạn nạn... Nó được biểu hiện qua các mối quan hệ gần gũi, tin cậy lẫn nhau, trong đó người đảng viên luôn chiếm được tình cảm quý mến, trân trọng của nhân dân. Đặc biệt, vẻ đẹp và sức mạnh của niềm tin lý tưởng được thể hiện hết sức tập trung và sinh động trong văn học, nghệ thuật. Người chiến sĩ cộng sản với tinh thần sẵn sàng xả thân cho lý tưởng, dám quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc đã trở thành hình ảnh quen thuộc đối với người dân Việt Nam trong suốt hơn một thế kỷ qua. Mối quan hệ giữa dân với Đảng là mối quan hệ cá - nước, gắn bó bền chặt thành “ý Đảng lòng dân”.

Trao gửi niềm tin_Ảnh: Thanh Miền


Có thể nói, mọi vẻ đẹp cao cả nhất của người cộng sản chân chính được kết tụ rõ nét nhất trong hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người trở thành niềm cảm hứng bất tận cho âm nhạc, văn học, mỹ thuật, hội họa, kiến trúc,... Hình tượng người cộng sản Hồ Chí Minh trong văn học, nghệ thuật đã đem lại những cảm xúc mạnh mẽ cho công chúng tiếp nhận nghệ thuật, tạo sức lan tỏa lớn trong cộng đồng. Đó là câu chuyện về một huyền thoại giữa đời thường bởi Người lúc nào cũng gần gũi với nhân dân, gắn bó với vận mệnh của dân tộc và nhân dân.

Từ sau năm 1975, đặc biệt là từ khi Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam bước vào một giai đoạn lịch sử mới với cả những thuận lợi lớn, thách thức lớn. Về khách quan, tình hình chính trị thế giới vẫn biến động hết sức phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chia rẽ sự đoàn kết thống nhất giữa dân với Đảng. Về chủ quan, thực tiễn đổi mới xuất hiện nhiều vấn đề mới, trong đó đáng chú ý là vấn đề đổi mới thể chế và phương thức lãnh đạo của Đảng, vấn đề mối quan hệ giữa Đảng với dân. Trong các nguy cơ làm ảnh hưởng đến sự nghiệp cách mạng hiện nay Đảng ta đã chỉ rõ nhiều nguy cơ, trong đó, đáng chú ý là nguy cơ “nội xâm” mà biểu hiện của nó là tệ tham nhũng, quan liêu, vô cảm, xa dân... Gần đây, hiện tượng “lợi ích nhóm”, thậm chí là sự manh nha của loại tư bản thân hữu đã được cảnh báo. Đây là nguy cơ từ bên trong, rất nguy hiểm, trực tiếp làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Nó rất dễ làm chệch hướng cách mạng và sự nghiệp đổi mới đất nước nếu không sớm bị phát hiện và kiên quyết loại trừ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: giành độc lập cho nước mà không đem lại hạnh phúc cho dân thì độc lập ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nguy cơ “nội xâm” sẽ là nguy cơ tạo sự bất ổn từ bên trong, từng bước làm suy yếu và tan rã Đảng Cộng sản, cuối cùng là “đổi màu” chế độ, đưa đất nước rơi vào khủng hoảng, sụp đổ.

Trong bối cảnh lịch sử hiện nay, sự phát triển ở Việt Nam đương đại là sự thay đổi mang tính bước ngoặt, vì thế, về văn hóa phát triển, đòi hỏi Việt Nam phải giải quyết hợp lý hàng loạt vấn đề: mối tương quan giữa giá trị mới và giá trị cũ, giữa văn hóa dân tộc và sự ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài, giữa lý tưởng và hiện thực, giữa cống hiến và hưởng thụ... Tất cả những vấn đề trên đây có ảnh hưởng không nhỏ tới ý thức, định hướng giá trị, hành vi, lối sống của cá nhân và cộng đồng, đặc biệt là giới trẻ. Đối mặt với những thay đổi này, vấn đề đặt ra là chúng ta phải chủ động thích ứng với bối cảnh mới của thời đại, xây dựng hệ giá trị mới mang bản sắc Việt Nam, làm sao để mỗi người Việt Nam đều mang trong mình khát vọng cống hiến cho sự phát triển của đất nước, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới. Việc trau dồi lý tưởng sống tốt đẹp sẽ giúp cho mọi người có định hướng đúng đắn trong quá trình nhận thức các giá trị và hoàn thiện bản thân. Coi giáo dục niềm tin là vấn đề quan trọng, chúng ta cần giáo dục cho con người tình yêu quê hương đất nước, giá trị truyền thống của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng; có niềm tin vào Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Niềm tin lý tưởng của người cách mạng Việt Nam hiện nay chính là niềm tin vào sự tất thắng của cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản. Đây cũng là hai giai đoạn của phát triển mà nhân loại sẽ hướng tới. Quan điểm thực tiễn đòi hỏi phải nhận thức đúng cách mạng Việt Nam đang ở giai đoạn nào thật cụ thể, để từ đó có chiến lược và phương thức phát triển hợp lý, tránh nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Vì đốt cháy giai đoạn thực chất là biểu hiện của duy ý chí, bất chấp thực tiễn lịch sử. Vì thế, cần tránh hai quan niệm thiên lệch: một là, không xác định rõ tình hình hiện nay chúng ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chứ chưa phải đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nếu chúng ta dùng những tiêu chí của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản để soi vào thực tiễn hiện nay, từ đó đề ra các chính sách kinh tế, văn hóa quá tầm mức là nóng vội, bất chấp hiện thực lịch sử, hệ thống chính sách sẽ phản tác dụng, làm nhân dân chán nản vì sự không phù hợp giữa chính sách và thực tiễn, giữa mục đích và phương thức; hai là, thấy chủ nghĩa cộng sản là hình ảnh quá xa vời, chưa qua kiểm nghiệm thực tiễn, từ đó chủ trương không cần giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mà chỉ chú trọng những thành quả vật chất có được. Thái độ này tất sẽ dẫn đến tình trạng sùng bái hưởng thụ, chỉ thấy cái lợi trước mắt mà bỏ quên cái lợi lâu dài. Điều đó trước hết đòi hỏi cần phải thay đổi quan niệm về niềm tin và cách tạo dựng niềm tin trên cơ sở đổi mới về tư tưởng, bám sát thực tiễn, quán triệt đường lối của Đảng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ. Cương lĩnh của Đảng đã nêu rất rõ về mục tiêu cuối cùng và mục tiêu trước mắt của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu cuối cùng là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu trước mắt là tiếp tục cuộc đổi mới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện thành công những mục tiêu trên, cần phải kiên định niềm tin vào lý tưởng cách mạng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Sức thuyết phục của Cương lĩnh và sự đúng đắn trong đường lối đổi mới là ở chỗ luôn gắn với thực tiễn, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Về thực chất, đó cũng chính là sự cụ thể hóa lý tưởng chủ nghĩa cộng sản trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Mặt khác, cần phải tỉnh táo nhận thức rằng, chủ nghĩa cộng sản tuyệt nhiên không phải là sản phẩm của một phán đoán giá trị giản đơn mà nó là kết quả của một quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ. Ngay từ ngày thành lập, Đảng ta đã xác định rõ những bước đi cụ thể của cách mạng Việt Nam, và tương ứng với mỗi giai đoạn cụ thể là việc đưa ra chiến lược phát triển phù hợp với yêu cầu của giai đoạn ấy. Chỉ có chiến lược và sách lược phù hợp thì cách mạng mới thành công, còn nếu lầm tưởng rằng nhiệm vụ cụ thể và cương lĩnh trong giai đoạn hiện nay chính là toàn bộ nhiệm vụ và mục tiêu cuối cùng của Đảng, thì đúng như V.  I. Lê-nin nói, chúng ta đang chỉ nhìn thấy lợi ích tạm thời mà hy sinh tương lai của phong trào cách mạng. Một khi nhận thức rõ bản chất của vấn đề, chúng ta mới duy trì được niềm tin vào tương lai lâu dài là chủ nghĩa cộng sản trong quần chúng nhân dân lao động. Chủ nghĩa cộng sản không phải là thiên đường như tôn giáo đã vẽ ra cho các tín đồ mà là sản phẩm do chính con người tạo ra vì hạnh phúc của nhân loại. Vì thế, điều quan trọng là toàn Đảng, toàn dân hiểu rõ, vừa phải quyết tâm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vừa nhận thức được rằng đó mới chỉ là một bước đi trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ để vững niềm tin vào mục đích cuối cùng của cách mạng chính là chủ nghĩa cộng sản.

Nhân rộng và phát huy sức mạnh của niềm tin

Để giáo dục niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và vào sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cần chú ý đến những giải pháp sau đây:

1- Tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trước sự tấn công của những trào lưu tư tưởng phản động hiện nay, cần khẳng định học thuyết Mác - Lê-nin là học thuyết khoa học nhất, cách mạng nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là hiện thân sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, là kết tinh những giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc ta trong thời đại ngày nay. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không những đã kế thừa mọi thành quả văn hóa ưu tú trong lịch sử nhân loại mà còn là học thuyết vạch rõ quy luật phát triển chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và tư duy con người. Khác với các học thuyết khác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn lịch sử mấy trăm năm qua. Về bản chất, đó là học thuyết biện chứng, luôn đổi mới và liên tục phát triển. Vì thế, học tập một cách toàn diện, hệ thống chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là con đường hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng khoa học, đúng đắn. Đồng thời, việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách hệ thống sẽ tránh được giáo điều trong vận dụng, nắm vững quy luật phát triển của lịch sử, từ đó hình thành niềm tin vững chắc về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vì thế, nếu dao động, xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh thì Đảng sẽ mất đi nền tảng tư tưởng, sự nghiệp cách mạng sẽ không còn kim chỉ nam hành động khoa học và giàu sức sống nhất.

2- Toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen cho rằng, mọi phong trào trước kia đều là phong trào của số ít người hoặc mưu cầu lợi ích cho số ít, còn phong trào của giai cấp vô sản là phong trào cách mạng của tuyệt đại đa số người, mưu cầu lợi ích cho tuyệt đại đa số người.

Chủ nghĩa Mác luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì thế, lập trường, quan điểm, phương pháp, quan điểm giá trị, quan điểm chân lý, quan điểm động lực của đảng phải thống nhất hữu cơ vào chủ thể quần chúng nhân dân. Nếu xa rời quần chúng thì bất cứ cá nhân nào, tập thể nào và chính đảng nào cũng đều thất bại. Làm lật thuyền cũng là dân, đẩy thuyền đi cũng là dân. Vì thế, thu phục được niềm tin của nhân dân là điều kiện quan trọng bảo toàn và nhân lên sức mạnh của Đảng. Muốn dân tin Đảng thì Đảng phải quán triệt tư tưởng vì nhân dân phục vụ, mục tiêu cao nhất của Đảng là phục vụ nhân dân. Quan điểm này phải đi vào thực tiễn, Đảng thuyết phục dân bằng chính thực tiễn hoạt động của mình.

3- Tăng cường đổi mới nhận thức; chú trọng nghiên cứu những vấn đề lý luận lớn, cấp bách; gắn lý luận với thực tiễn.

Cần nghiên cứu một cách sâu sắc vấn đề đổi mới chính trị và thể chế, đổi mới để phát huy thành tựu đã có, khắc phục hạn chế, tồn tại. Phải coi gắn lý luận với thực tiễn là nguyên tắc tối quan trọng vì nếu tách rời lý luận và thực tiễn thì mọi chính sách, định hướng sẽ lập tức bị rơi vào siêu hình, thiếu tính khả thi.

Việc nghiên cứu lý luận phải căn cứ vào yêu cầu của phát triển xã hội, gắn với đời sống phong phú của nhân dân thì mới có sức sống lâu dài và sức tác động lớn. Một mặt, nghiên cứu thấu đáo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mặt khác, nghiên cứu những vấn đề lý luận mới nảy sinh từ thực tiễn, có tổng kết, có đánh giá một cách khoa học. Đặc biệt, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, in-tơ-nét phát triển, việc cập nhật và xử lý thông tin để đưa ra những chính sách, giải pháp kịp thời là điều cần hết sức chú ý, nếu không sẽ bị tụt hậu, chính sách đi sau thực tiễn. Mạnh dạn đổi mới quan điểm, cách nhìn, đổi mới lý luận và phương thức tác động thực tiễn để tạo nên sức sống mới cho lý luận, bắt kịp những chuyển động mới nhất của thời đại.

4- Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình.

Đây là nội dung hết sức quan trọng vì đó là cách để Đảng luôn giữ được niềm tin của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn phải giữ gìn sự trong sáng của Đảng. Muốn trong sáng thì Đảng phải liêm chính, chí công, vô tư. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng có những thời điểm Đảng phạm sai lầm. Dám thừa nhận sai lầm, dám tự phê bình trước dân là biểu hiện dũng khí của một đảng cách mạng chân chính. Tự phê bình và phê bình thường xuyên phải được coi là nguyên tắc cốt lõi của công tác xây dựng Đảng. Việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và tinh thần kiên quyết chống tham nhũng trong thời gian qua đã được nhân dân hưởng ứng, góp phần tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

5- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc và chủ nghĩa nhân văn.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân tộc nào phát huy được lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thì dân tộc đó sẽ phát triển. Lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược và âm mưu đồng hóa của các thế lực ngoại bang. Trong những cuộc kháng chiến đó, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức cộng đồng... đã thực sự trở thành thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận định: “Vận nước thịnh hay suy, mất hay còn, nhục hay vinh, phần rất quan trọng là  tùy thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta lãng quên và chôn vùi món vũ khí tinh thần ấy”(2).

Cùng với sự phát triển của đất nước trong trường kỳ lịch sử, chủ nghĩa yêu nước trở thành một giá trị, một động lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ thúc đẩy biết bao thế hệ kiên cường và dũng cảm hy sinh để giành lại và bảo vệ độc lập của Tổ quốc, bảo vệ phẩm giá của con người. Với tư cách là một giá trị cơ bản, là cội nguồn hết thảy của những giá trị khác, chủ nghĩa yêu nước chi phối mọi hoạt động của các thành viên trong xã hội, tập trung mọi khả năng và tinh thần của họ vào nhiệm vụ chung nhất, lợi ích chung nhất có ý nghĩa sống còn là mục tiêu giành và giữ cho được độc lập dân tộc và văn hóa dân tộc.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn, đẩy lùi mưu đồ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đòi hỏi việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, đoàn kết cộng đồng phải được coi là công việc thường xuyên, cấp thiết. Yêu nước ngày nay là phải đem hết tài năng, tâm huyết, khát vọng đổi mới, ý thức độc lập tự cường của mỗi cá nhân, tập thể và của cả dân tộc để bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” và “hội nhập, giao lưu quốc tế” cần được coi là những nội dung quan trọng nhất thể hiện bước phát triển mới của tinh thần dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay.

Bên cạnh việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cần đẩy mạnh giáo dục lòng nhân ái, tình cảm cộng đồng; đồng thời, phải tăng cường giáo dục tính cần cù, sáng tạo trong lao động và học tập; giáo dục tinh thần dân chủ và công bằng xã hội. Đây là hạt nhân của định hướng xã hội chủ nghĩa trong  xây dựng giá trị mới, lối sống mới, đạo đức mới.

Quan điểm phát triển bền vững của Đảng cũng đòi hỏi con người không chỉ ứng xử tốt với cộng đồng xã hội mà phải tôn trọng, hài hòa với tự nhiên. Truyền thống trồng cây hằng năm do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động là bằng chứng từ rất sớm Người đã giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái. Trong thời đại khủng hoảng môi trường và biến đổi khí hậu hiện nay, việc giáo dục tinh thần tôn trọng, lắng nghe và bảo vệ tự nhiên càng có ý nghĩa to lớn. Mọi lý tưởng cao đẹp, xã hội công bằng, văn minh chỉ có thể bền vững trong một môi trường sinh thái bền vững. Đây cũng chính là nội dung lớn trong giáo dục chủ nghĩa nhân văn hiện đại ở Việt Nam và tất cả các quốc gia trên thế giới./.

----------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 t. 2, tr. 268
(2) Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 10 – 11