Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: Từ thực tiễn của Đảng bộ tỉnh Nghệ An

Lê Đức Cường
Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Nghệ An
16:07, ngày 18-02-2022

TCCS - Công tác cán bộ luôn là khâu "then chốt của nhiệm vụ then chốt" xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đặt ra những yêu cầu mới, ngày càng cao hơn đối với công tác quan trọng hàng đầu trên, nhằm xây dựng được một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển của tỉnh Nghệ An trong tình hình mới.

Đồng chí Thái Thanh Quý, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An kiểm tra, khảo sát thực địa Khu kinh tế Đông Nam, tỉnh Nghệ An_Nguồn: truyenhinhnghean.vn

1- Cán bộ giữ vai trò quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Người khẳng định, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng, là “then chốt của then chốt”. Đảng đã dành nhiều công sức, tâm huyết để xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo các cấp; qua đó, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, ngày 18-6-1997, “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, tiếp tục khẳng định: “Công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”. Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII khẳng định: “Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng”.

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quan trọng này, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(1). Cán bộ và công tác cán bộ không những là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, mà còn là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng ta; điều này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, coi công tác cán bộ là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”.

2- Đối với tỉnh Nghệ An, từ khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, cùng với sự chỉ đạo, quan tâm, chăm lo xây dựng của các cấp ủy, đội ngũ cán bộ các cấp của tỉnh có bước phát triển, trưởng thành, lớn mạnh về nhiều mặt, bảo đảm về số lượng, có cơ cấu hợp lý; phần lớn cán bộ được rèn luyện, trưởng thành trong thực tiễn nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trình độ, kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng cao. Số đông cán bộ đã nỗ lực rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Tỉnh Nghệ An đã đạt được những kết quả quan trọng trong công tác cán bộ. Tỉnh ban hành nghị quyết riêng về công tác cán bộ, đề ra nhiều mục tiêu, giải pháp mang tính chiến lược lâu dài; đồng thời, qua từng nhiệm kỳ đã ban hành được hệ thống các quy định, quy chế về công tác cán bộ khá chặt chẽ, đồng bộ, dễ tổ chức thực hiện, bảo đảm phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng; bên cạnh đó, thực hiện nghiêm nguyên tắc “Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị”. Nhìn chung, các quy chế, quy định đã gắn thẩm quyền trách nhiệm cho từng tổ chức đảng theo phân cấp, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, tổ chức sử dụng cán bộ; đồng thời, thường xuyên thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và phòng, chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ; do vậy, trong quá trình thực hiện, công tác cán bộ ở tỉnh Nghệ An đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Công tác tuyển dụng ngày càng thực chất và chặt chẽ hơn; ngoài việc thực hiện các quy định chung của Đảng, Nhà nước, tỉnh đã ban hành chủ trương, chính sách và ưu tiên trong tuyển dụng công chức, viên chức để tìm kiếm, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc trong các cơ quan của hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cơ sở. Công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ được quan tâm cả về nhận thức và cách làm; việc đánh giá, nhận xét cán bộ thực hiện nền nếp, qua nhiều kênh, nhiều chiều, phát huy được tính công khai, dân chủ, khách quan trong đánh giá cán bộ. Trong công tác quy hoạch cán bộ, tỉnh đã coi trọng và thực hiện khá tốt ngay từ khâu phát hiện, giới thiệu nguồn, vừa bảo đảm được chất lượng, tính khả thi trong quy hoạch, vừa bảo đảm số lượng và cơ cấu hợp lý, nhất là với cơ cấu cán bộ nữ, cán bộ trẻ và cán bộ là người dân tộc thiểu số.

Việc thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được thực hiện nghiêm túc, từ việc xây dựng, sáp nhập, nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo, đến ban hành và áp dụng chính sách hỗ trợ, khuyến khích đối với cán bộ đi học gắn với cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng theo từng nhóm chức danh cụ thể; qua đó, cơ bản đã khắc phục được tình trạng đào tạo tràn lan, lãng phí, không thiết thực, nhằm bảo đảm cán bộ phải được đào tạo đầy đủ theo yêu cầu của từng chức danh trước khi đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử. Hiện nay, 100% số cán bộ diện cấp tỉnh, cấp huyện quản lý đều có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên; đối với cấp cơ sở, qua đánh giá tổng kết công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, trình độ chuyên môn và chính trị của đội ngũ cấp ủy viên cơ sở tăng lên đáng kể; tỷ lệ cấp ủy viên có trình độ từ đại học trở lên đạt 90,1% (tăng 17,3% so với đầu nhiệm kỳ 2015 - 2020); người có trình độ cao cấp, trung cấp chính trị chiếm 88,6% (tăng 11,2% so với đầu nhiệm kỳ 2015 - 2020).

Công tác đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ các cấp đã có những đổi mới quan trọng, trên cơ sở bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của Đảng. Việc bổ nhiệm cán bộ đã gắn với công tác luân chuyển cán bộ;  chú trọng tới đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ và có cơ cấu hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện của tổ chức đảng. Quy trình bổ nhiệm, luân chuyển được tuân thủ chặt chẽ, thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đã tạo điều kiện để cán bộ được tiếp cận, “cọ xát” với thực tiễn, nên có bước trưởng thành nhanh chóng; qua đó, đã khắc phục đáng kể hiện tượng cục bộ, khép kín trong công tác cán bộ, tạo nên những chuyển biến mới trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là ở cấp huyện và cơ sở. Tính từ năm 2011 đến nay, tỉnh Nghệ An đã luân chuyển, điều động 61 cán bộ từ tỉnh về giữ các chức danh chủ chốt cấp huyện, thành phố, thị xã; trong đó, có 27 đồng chí được luân chuyển, điều động và bố trí giữ chức vụ bí thư cấp ủy cấp huyện không phải là người địa phương; các huyện, thành phố, thị xã cấp huyện đã luân chuyển, điều động 170 cán bộ về giữ các chức danh chủ chốt (bí thư, phó bí thư) các xã, phường, thị trấn...

Bên cạnh những ưu điểm, công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ nói chung, trong đó có tỉnh Nghệ An nói riêng, vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị hiện nay đông nhưng chưa mạnh, có nơi còn có tình trạng thiếu đồng bộ; năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém, trong đó tư duy và năng lực quản lý, phát triển kinh tế - xã hội của một bộ phận cán bộ đang là điểm yếu chưa được khắc phục; vẫn còn tình trạng cán bộ nể nang, né tránh, ngại va chạm(2); một bộ phận cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ và người dân tộc thiểu số trong các cơ quan, đơn vị cơ bản còn thấp so với yêu cầu.

Công tác đánh giá cán bộ hiện nay nói chung vẫn đang còn là khâu yếu(3), chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể; đánh giá chỉ mới nhìn nhận ở một thời điểm và chưa coi trọng đánh giá theo quá trình; trong đánh giá còn nể nang, né tránh, sợ mất lòng hoặc nắm không chắc về cán bộ; có nhiều trường hợp chưa thật sự công tâm, khách quan, việc đánh giá chỉ mới chú ý đến cán bộ đương chức, còn cán bộ trong quy hoạch chưa được đánh giá đầy đủ.

Công tác quy hoạch cán bộ tuy đã được chú trọng, nhưng do nhận thức của một số tổ chức đảng và cá nhân có liên quan còn hạn chế, nên vẫn còn lúng túng về cách làm, có thời điểm, có giai đoạn chất lượng công tác quy hoạch chưa cao, việc quy hoạch chưa gắn kết, liên thông giữa quy hoạch cấp ủy với quy hoạch lãnh đạo chủ chốt của các cấp, các ngành và các địa phương. Trong quy hoạch, tính khả thi ở nhiều trường hợp chưa cao; quy hoạch cán bộ chủ chốt các cấp độ tuổi trên 50 còn chiếm tỷ lệ khá cao, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ chiếm tỷ lệ thấp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ chưa được quan tâm đầy đủ, đúng mức; có tư tưởng cầu toàn, thiếu tin cậy, thiếu mạnh dạn giao việc, chưa tạo điều kiện để cán bộ trẻ “cọ xát” với thực tiễn (tỷ lệ cán bộ trẻ tham gia cấp ủy các cấp dưới 10%)(4). Trình độ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế của đội ngũ cán bộ các cấp có mặt còn hạn chế. Công tác luân chuyển cán bộ có lúc, có nơi còn những bất cập nhất định, chưa bám sát quy hoạch. Một số cấp ủy chưa xây dựng được kế hoạch tổng thể, kế hoạch hằng năm về luân chuyển cán bộ; việc luân chuyển chỉ mới nhằm giải quyết tình thế trong bố trí cán bộ là chính; việc bố trí cán bộ sau luân chuyển còn gặp nhiều khó khăn...

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, khuyết điểm đó là, “việc thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm”(5), một số cấp ủy chưa dự báo được những thuận lợi, khó khăn, thách thức của quá trình phát triển để đặt ra yêu cầu mới đối với công tác cán bộ; nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu về cán bộ và công tác cán bộ chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện; không ít cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo chưa chủ động xây dựng quy hoạch cán bộ; một số nội dung trong công tác cán bộ chậm được đổi mới; phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm. Cơ quan làm công tác cán bộ có nơi, có lúc chậm đổi mới, chưa làm tốt nhiệm vụ, trách nhiệm tham mưu cho cấp ủy về chiến lược cán bộ; một số cán bộ làm công tác tổ chức chưa gương mẫu về đạo đức, phẩm chất, thiếu khách quan, trung thực, năng lực yếu.

Lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An kiểm tra công tác chuẩn bị các điều kiện cho kỳ thi tuyển sinh vào Trường Trung học phổ thông Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Vinh với mục tiêu vừa bảo đảm chất lượng, vừa thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống dịch COVID-19_Ảnh: TTXVN

3- Từ thực tiễn công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ của tỉnh Nghệ An thời gian qua, để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, giữ gìn và phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc. Chỉ đạo thực hiện quyết liệt, có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII; gắn kết chặt chẽ việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đi đôi với thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện nghiêm túc việc rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng theo tinh thần Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21-1-2019, của Ban Bí thư, “Về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”.

Thứ hai, xác định rõ hơn nữa tiêu chuẩn cho từng chức danh cán bộ, công chức, gắn với rà soát, bổ sung, hoàn thiện đề án vị trí việc làm cho phù hợp với tình hình mới hiện nay. Đây là yếu tố “đầu vào” quan trọng và là cơ sở để lựa chọn cán bộ, công chức phù hợp với từng chức danh, từng vị trí việc làm. Việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh phải trên cơ sở đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và các chức danh tương đương cần có khung tiêu chuẩn chung giống nhau; tránh tình trạng mỗi ngành quy định một kiểu, không đồng bộ, thống nhất với cấp ủy các cấp. Trong đó, chú trọng lấy năng lực công tác, uy tín cá nhân, kết quả thực tiễn làm thước đo và là cơ sở trong tiêu chuẩn để lựa chọn, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ chủ chốt, cần có tiêu chuẩn rèn luyện, trưởng thành qua thực tiễn công tác theo đúng tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII: “Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới”.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện các tiêu chí và phương pháp đánh giá, xếp loại cán bộ, cụ thể hóa hơn nữa việc xử lý cán bộ sau đánh giá, bởi đánh giá cán bộ là khâu then chốt của công tác cán bộ. Trong đánh giá, cần mở rộng dân chủ, bảo đảm có nhiều thông tin khách quan, đa chiều về cán bộ. Đánh giá cán bộ phải có quá trình, đặt trong hoàn cảnh cụ thể, có phương pháp đánh giá khoa học, khách quan; đánh giá cán bộ cần gắn kết chặt chẽ với việc quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ. Phân định rõ giữa đánh giá cán bộ định kỳ với đánh giá cán bộ khi đưa vào quy hoạch và khi đề bạt, bổ nhiệm; nhằm vừa bảo đảm tính thống nhất trong đánh giá cán bộ nói chung, vừa phát huy được ý nghĩa, tác dụng của đánh giá cán bộ trong từng trường hợp cụ thể.

Thứ tư, mở rộng công khai, dân chủ, để phát huy tốt hơn nữa trách nhiệm của các cấp, các ngành và hệ thống chính trị trong xây dựng và thực hiện nghiêm việc quy hoạch đội ngũ cán bộ. Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ phải được xem trọng, từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn một cách bài bản, khoa học, chiến lược, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong xây dựng quy hoạch, cần xác định rõ hơn tiêu chuẩn cho từng chức danh quy hoạch, tránh đề ra tiêu chuẩn chung chung; cần xác định rõ nguồn cán bộ giới thiệu quy hoạch, đồng thời lộ trình phát triển của cán bộ trong quy hoạch phải có tính khả thi, có triển vọng phát triển, tránh tình trạng quy hoạch “treo”. Sau khi đã quy hoạch, cần công khai quy hoạch và xây dựng kế hoạch để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí vào các vị trí công tác khác nhau để thử thách, rèn luyện, nâng tầm cán bộ.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau; mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở, cấp phòng; ban hành quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; trong đó, cần có cơ chế thí điểm để người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình.

Thứ sáu, chính sách cán bộ luôn là vấn đề quan trọng, nhạy cảm có tác động tới chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị và chất lượng lãnh đạo của tổ chức đảng. Từ thực tiễn cho thấy, cần thực hiện phân cấp mạnh hơn và rõ hơn trong công tác chính sách cán bộ, tạo điều kiện để các địa phương căn cứ tình hình cụ thể đề ra các chính sách cụ thể, sát hợp. Trong quy định chính sách cán bộ, ngoài các phần quy định chung bắt buộc, cần có các điểm “mở” để cấp ủy các cấp có thẩm quyền xem xét vận dụng đối với các trường hợp, đối tượng cụ thể. Việc bố trí cán bộ (điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho nghỉ việc...) luôn phải gắn liền với việc thực hiện tốt chính sách cán bộ.

Thứ bảy, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất về công tác cán bộ; xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lợi dụng chức vụ được giao để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Thực hiện quản lý chặt chẽ, hiệu quả đội ngũ cán bộ các cấp; trong đó, cần xây dựng và vận hành có hiệu quả hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, để bảo đảm tính đồng bộ, liên thông, nhất quán trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Thứ tám, tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ; nâng cao phẩm chất, trình độ, kiến thức và năng lực của đội ngũ làm công tác cán bộ. Từng cấp ủy cần quan tâm đến tính đặc thù và những tiêu chuẩn riêng cần có đối với người làm công tác tổ chức, cán bộ; có biện pháp tích cực và chủ động trong việc bảo vệ cán bộ làm đúng; xử lý nghiêm minh, kịp thời những cán bộ có sai phạm, thoái hóa, biến chất, cơ hội./.

---------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 230
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 179
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 196
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 196
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 196