Tỉnh Tuyên Quang phát huy vai trò của văn hóa, văn hóa cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh

PGS, TS Nguyễn Đức Chiện - Ma Thị Thao - Đào Hồng Xiêm
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam - Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang
05:11, ngày 30-06-2025

TCCS - Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025: “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người” là một trong các nhiệm vụ trọng tâm. Những năm qua, tỉnh Tuyên Quang tập trung phát huy vai trò của văn hóa, văn hóa cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vai trò của văn hóa, văn hóa cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh

“Văn hóa cộng đồng là văn hóa ứng xử của cộng đồng, tức là phương thức và nguyên tắc ứng xử của một cộng đồng trong những môi trường, không gian và thời gian xác định”(1). Văn hóa cộng đồng được hình thành từ các hoạt động sáng tạo chung, trong quá trình tương tác giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người với xã hội, được các thành viên trong cộng đồng lựa chọn, chấp nhận và chia sẻ trong quá trình chung sống lâu dài cùng nhau.

Các đội văn nghệ, câu lạc bộ hoạt động hiệu quả, góp phần lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc, mang đậm bản sắc dân tộc của vùng đất Tuyên Quang_Ảnh: baodantoc.vn

Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng, phát triển đất nước. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng xác định: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”(2). Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”(3). Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu: “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(4). Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam là nền tảng, động lực, nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ bốn trụ cột vững chắc để xây dựng và phát triển bền vững đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên(5). Đặc biệt, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11-2021, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh vai trò của văn hóa, đó là: “Phát triển “sức mạnh mềm” của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới”.

Để thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển văn hóa đã được ban hành, như: Hiến pháp năm 2013, các luật về phát triển văn hóa, chương trình mục tiêu quốc gia, chiến lược phát triển văn hóa với từng lĩnh vực cụ thể… Bên cạnh đó, Chính phủ ban hành nhiều nghị định, chính sách, đề án… để quản lý, bảo vệ, đầu tư, hỗ trợ nguồn lực cho văn hóa. Các nhà lập pháp, nhà hoạch định chính sách cùng các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực văn hóa và nhiều lĩnh vực khác nhau thảo luận, tìm kiếm các giải pháp xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm huy động, khơi thông và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển văn hóa, từ đó phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa, trong nhiệm kỳ qua, tỉnh Tuyên Quang đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình, chính sách, đề án, kế hoạch,... về lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, trong đó chú trọng việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Tuyên Quang đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 tiếp tục xác định một trong những giải pháp chủ yếu để thực hiện các khâu đột phá, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đó là: “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người”, trong đó tập trung “xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Tuyên Quang có trí tuệ, có tinh thần vì cộng đồng, có khát vọng vươn lên, trong sáng, lành mạnh; khơi dậy trong nhân dân tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, phát huy truyền thống quê hương cách mạng...”(6).

Những kết quả bước đầu của văn hóa, văn hóa cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh

Trước sự chuyển mình của cả nước khi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, bộ mặt nông thôn ngày càng khang trang, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân đã được nâng lên. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới, bên cạnh hai tiêu chí cụ thể về văn hóa (tiêu chí số 6 - cơ sở vật chất văn hóa, tiêu chí số 16 - văn hóa), các cấp ủy, chính quyền còn đề cập tới nhiều tiêu chí khác thể hiện các vấn đề căn bản về văn hóa, như tiêu chí về môi trường, giáo dục, y tế, thông tin, truyền thông, hình thức tổ chức sản xuất… Văn hóa cộng đồng đã được quan tâm triển khai thực hiện, đạt nhiều kết quả(7), như: các di tích lịch sử, văn hóa từng bước được đầu tư trùng tu, tôn tạo; các di sản văn hóa phi vật thể, hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng, lễ hội truyền thống, hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ truyền thống được bảo tồn và phát triển. Hiện nay, Tuyên Quang có 658 di tích, trong đó 3 khu di tích quốc gia đặc biệt (Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào; Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Địa điểm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng; Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang - Lâm Bình), 182 di tích quốc gia, 264 di tích cấp tỉnh, các di tích còn lại đã được cắm mốc xác định địa điểm(8). Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo quản, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch đến năm 2025. Hoàn thành Khu tưởng niệm các vị tiền bối cách mạng đã sống và làm việc tại Tuyên Quang trong Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tỉnh Quyên Quang đã xây dựng và thực hiện đồng bộ quy hoạch, kế hoạch về bảo tồn, tôn tạo, phục hồi và phát huy giá trị các khu, điểm di tích, danh thắng thành các khu, điểm du lịch, đồng thời đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá hình ảnh di sản văn hóa tỉnh Tuyên Quang. Các quy hoạch được duyệt sẽ là tiền đề quan trọng để Tuyên Quang tập trung nguồn lực bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tạo nền tảng thúc đẩy phát triển, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.

Từ năm 2012 đến nay, tỉnh Tuyên Quang lập hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa 16 di sản của tỉnh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, gồm: Lễ hội Lồng Tông, hát Then (dân tộc Tày); hát Páo Dung, lễ cấp sắc (dân tộc Dao); kéo co truyền thống của cộng đồng các dân tộc Tuyên Quang; hát Soọng Cô (dân tộc Sán Dìu); hát Sình ca (dân tộc Cao Lan); Lễ hội Đình Thọ Vực (xã Hồng Lạc, huyện Sơn Dương); lễ hội Rước mẫu đền Hạ, đền Thượng, đền Ỷ La (thành phố Tuyên Quang); nghệ thuật trang trí trên trang phục truyền thống của người Dao Đỏ (huyện Sơn Dương, Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang, Lâm Bình); nghệ thuật trang trí trên trang phục của người Mông Hoa (huyện Lâm Bình, huyện Hàm Yên, huyện Chiêm Hóa, huyện Na Hang, huyện Yên Sơn); lễ Đại Phan của người Sán Dìu, tỉnh Tuyên Quang; Tri thức về cọn nước của người Tày (xã Trung Hà, xã Hà Lang, huyện Chiêm Hóa; xã Côn Lôn huyện Na Hang; xã Phúc Yên huyện Lâm Bình); lễ hội Đình Hồng Thái xã Tân Trào, huyện Sơn Dương; lễ nhảy lửa của người Pà Thẻn xã Hồng Quang, huyện Lâm Bình; tri thức và tập quán trồng lúa nước của người Tày (xã Lăng Can, xã Hồng Quang, xã Khuôn Hà, xã Thượng Lâm, xã Phúc Yên, huyện Lâm Bình). Đặc biệt, ngày 12-12-2019, UNESCO đã công nhận Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Các di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đa dạng với nhiều sắc thái đặc sắc, hấp dẫn tạo nên những sản phẩm du lịch riêng có chính là nguồn lực văn hóa giàu giá trị, góp phần thu hút khách du lịch đến với Tuyên Quang.

Nhằm phát huy giá trị di sản văn hóa thực hành Then của người Tày, tỉnh Tuyên Quang đang chú trọng khai thác, phát triển di sản hát then, đàn tính gắn với phát triển du lịch cộng đồng. Văn hóa cộng đồng được gìn giữ, phát triển với nhiều loại hình trải nghiệm bản sắc văn hóa của địa phương, là cầu nối gắn kết giữa văn hóa bản địa với du khách. Tỉnh Tuyên Quang hiện có 77 homestay, từ đó hình thành một số điểm thu hút đông đảo khách du lịch tham quan, trải nghiệm, như: điểm du lịch cộng đồng tại thôn Bản Ba, xã Trung Hà (huyện Chiêm Hóa); thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm, thôn Nặm Đíp, xã Lăng Can (huyện Lâm Bình); thôn Nà Khá xã Năng Khả, thôn Khau Tràng xã Hồng Thái (huyện Na Hang)... Các điểm du lịch cộng đồng gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh luôn được người dân nhiệt tình hưởng ứng, bà con ngày càng có ý thức bảo vệ môi trường, tạo cảnh quan xanh - sạch - đẹp, hăng hái lao động, sản xuất, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, bài trừ các tệ nạn xã hội, xây dựng Gia đình văn hóa, Khu dân cư văn hóa, xây dựng quy ước thôn, tổ dân phố, góp phần lan tỏa thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ngày càng diễn ra sôi nổi, liên tục, rộng khắp.

Sự gắn kết văn hóa cộng đồng ở Tuyên Quang còn được thể hiện qua công tác bảo tồn, phục dựng lễ hội. Lễ hội hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của làng, xã, mang tính gắn kết gia đình, dòng họ, bản làng, cộng đồng xã hội; góp phần nâng cao đời sống tinh thần, gắn kết mọi tầng lớp nhân dân và độ tuổi cùng tham gia. Tuyên Quang hiện có 49 lễ hội, trong đó có 43 lễ hội truyền thống, 6 lễ hội văn hóa. Nhiều lễ hội đã được nghiên cứu, phục dựng và tổ chức quy mô, bài bản, như: lễ hội Lồng Tông, lễ hội cầu may, lễ hội cầu mùa, lễ hội giã cốm của dân tộc Tày; lễ hội Đầm Mây của dân tộc Dao; lễ hội đình Như Xuyên, đình Giếng Tanh, đình Song Lĩnh, đình Minh Cầm của dân tộc Cao Lan; lễ hội nhảy lửa của dân tộc Pà Thẻn... Sự nở rộ của lễ hội dân gian và sự phát triển nhanh chóng của du lịch gắn kết với nhau dẫn đến sự hình thành các loại hình “du lịch văn hóa”, “du lịch cộng đồng”, “du lịch khám phá”, “du lịch trải nghiệm”, “du lịch về nguồn”..., trong đó, điểm nhấn là “du lịch lễ hội”. Du lịch lễ hội phát triển, thúc đẩy người dân khôi phục, gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa lễ hội đang có để thu hút khách du lịch đến tham quan, trải nghiệm. Đặc biệt, từ năm 2014 đến nay, tỉnh duy trì tổ chức Lễ hội Thành Tuyên - một lễ hội đặc sắc do nhân dân Tuyên Quang khởi xướng, 3 lần được Hội đồng Kỷ lục quốc gia trao bằng xác lập kỷ lục Guiness Việt Nam, cho: “Đêm hội Trung thu có nhiều mô hình đèn lớn nhất Việt Nam”;“Mâm cỗ Trung thu lớn nhất Việt Nam”; “Cặp đèn kéo quân lớn nhất Việt Nam”.

Nhận thấy tầm quan trọng của nhà văn hóa xã, thôn, tổ dân phố trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị cũng như tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao của cộng đồng, các cấp ủy, chính quyền trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đầu tư xây dựng nhà văn hóa gắn với sân thể thao và khuôn viên. Hiện nay, tỉnh Tuyên Quang có 134/138 xã, phường, thị trấn có trung tâm văn hóa, thể thao xã, phường, thị trấn (chiếm tỷ lệ 97%), trong đó có 83 xã, phường, thị trấn có trung tâm văn hóa, thể thao đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch gắn với tiêu chí xây dựng nông thôn mới; còn 4 xã, phường, thị trấn chưa có nhà văn hóa (chiếm 3%); 1.680/1.733 thôn, tổ dân phố có nhà văn hóa - khu thể thao (chiếm 97%), trong đó 1.344 nhà văn hóa - khu thể thao thôn, tổ dân phố đạt chuẩn (chiếm 78%), còn 53 thôn, tổ dân phố chưa có nhà văn hóa (chiếm 3%)(9). Văn hóa cộng đồng còn được gìn giữ và phát triển thông qua hoạt động của 4.391 đội thể thao cơ sở; 138 đội văn nghệ quần chúng xã, phường, thị trấn; trên 2.600 đội văn nghệ quần chúng thôn, bản, tổ dân phố; các cơ quan, đơn vị, trường học; lực lượng vũ trang...; trên 200 câu lạc bộ đàn, hát dân ca và bảo tồn văn hóa dân tộc; trên 70 câu lạc bộ hát Then - đàn Tính; 6 câu lạc bộ hát Páo Dung của dân tộc Dao; 13 câu lạc bộ hát Sình ca của dân tộc Cao Lan... và hoạt động nghệ thuật, truyền dạy của các nghệ nhân. Tuyên Quang hiện có 2 Nghệ nhân Nhân dân và 11 Nghệ nhân Ưu tú được vinh danh. Đây là những người nắm giữ, thực hành và truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể, có nhiều nỗ lực cống hiến, góp phần tích cực trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc phát huy vai trò của văn hóa, văn hóa cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh của Tuyên Quang cũng còn một số hạn chế cần khắc phục, nhất là sự mai một bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số, thậm chí có dân tộc mất đi các nét văn hóa đặc trưng; vẫn còn những phong tục, tập quán lạc hậu; việc bảo tồn, truyền dạy di sản văn hóa của các dân tộc thiếu số chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức... Mặt khác, những người hiểu, nắm rõ văn hóa của các dân tộc tuổi ngày càng cao, nhiều người đã qua đời, đây là trở ngại lớn trong việc bảo tồn văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Hệ thống thiết chế văn hóa đã được các cấp ủy, chính quyền quan tâm đầu tư xây dựng nhưng còn chậm, đặc biệt là thiết chế văn hóa cấp tỉnh, huyện. Việc huy động nguồn lực trong xã hội để đầu tư xây dựng hạ tầng thiết chế văn hóa, thể thao ở cơ sở còn khó khăn. Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở cơ sở chưa được chuẩn hóa để bảo đảm tính đồng bộ và phù hợp theo nghiệp vụ, chuyên môn; chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cho cán bộ làm công tác văn hóa chưa hợp lý, đặc biệt là đội ngũ công chức văn hóa cấp xã.

Giải pháp phát huy vai trò của văn hóa, văn hóa cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh

Để phát huy hơn nữa vai trò của văn hóa, văn hóa cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền sâu rộng và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về văn hóa, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Hội nghị Văn hóa toàn quốc (ngày 24-11-2021), trong đó quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”; coi trọng việc bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nhất là phát triển du lịch, để văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Các cấp ủy, chính quyền cần nâng cao hơn nữa vai trò, sự chủ động, tích cực trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, góp phần đẩy mạnh thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, bảo đảm mối quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế, giữa bảo tồn, phát huy và phát triển.

Hai là, xây dựng, ban hành các chương trình, đề án, cơ chế, chính sách, kế hoạch… tập trung xây dựng con người Tuyên Quang phát triển toàn diện; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh; nêu cao những giá trị văn hóa tốt đẹp, đẩy lùi những yếu tố phản văn hóa. Trước mắt, tập trung thực hiện tốt Dự án 6 “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”, Kế hoạch số 127/KH-UBND, ngày 5-7-2022, của Ủy ban nhân dân tỉnh về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Tuyên Quang giai đoạn 2021 - 2025.

Một buổi sinh hoạt của các thành viên Câu lạc bộ hát then, đàn tính xã Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang)_Ảnh: TTXVN

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá sâu rộng, tôn vinh các giá trị văn hóa và bảo tồn, phát triển bản sắc văn hóa thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, phương tiện thông tin đại chúng, biểu diễn văn nghệ, đặc biệt trong các buổi sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt chi hội... , để người dân nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc mình. Khuyến khích tuyên truyền, vận động đồng bào, các chủ thể văn hóa phối hợp với các cơ quan chuyên môn cùng chung tay bảo tồn di sản văn hóa. Tiếp tục phát huy vai trò của thiết chế văn hóa cơ sở, phát triển phong trào văn nghệ quần chúng trong cộng đồng các dân tộc, một số lễ hội truyền thống cần chú trọng khai thác chất liệu dân gian. Sưu tầm, khôi phục các bài dân ca, các điệu dân vũ, các trò chơi dân gian của một số lễ hội truyền thống; các làng nghề truyền thống; tri thức dân gian,… của đồng bào dân tộc thiểu số. Khuyến khích thế hệ trẻ tại địa phương tiếp thu bản sắc văn hóa dân tộc mình thông qua việc tổ chức các lớp truyền dạy tiếng, hát dân ca, dân vũ, các nghề thủ công truyền thống và các tri thức dân gian.

Bốn là, tăng cường phối hợp với các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên…, trong việc bảo vệ và phát huy di sản Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam được UNESCO ghi danh Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; đăng cai tổ chức và tham gia các ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, ngày hội văn hóa dân tộc Mông, Dao, Sán Chay… toàn quốc; liên hoan hát Then, đàn tính toàn quốc; liên hoan dân ca ba miền; tổ chức Lễ hội Thành Tuyên gắn với các hoạt động văn hóa, du lịch khu vực, quốc gia.

Năm là, tạo dựng môi trường sinh hoạt và thực hành di sản. Di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, do yếu tố khách quan cũng như chủ quan, môi trường sinh hoạt và thực hành di sản văn hóa ngày càng bị thu hẹp. Cụ thể, cần tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số quan tâm xây dựng nhà ở bảo đảm kiến trúc truyền thống, cảnh quan; xây dựng đồng bộ các thiết chế văn hóa, tạo môi trường để hình thức sinh hoạt văn hóa được nuôi dưỡng, không làm mất đi giá trị truyền thống của đồng bào các dân tộc.

Sáu là, tập trung mọi nguồn lực để quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc; các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể có giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, làm phong phú kho tàng di sản văn hóa dân tộc; số hóa công tác quản lý, phát huy giá trị di sản văn hóa. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ các nghệ nhân, chủ thể văn hóa, những người đang nắm giữ, bảo tồn và truyền dạy các giá trị văn hóa dân tộc.

Bảy là, đẩy mạnh khai thác di sản văn hóa tạo thành sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo vệ quốc phòng, an ninh. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và nhân dân tham gia khai thác di sản văn hóa để phát triển dịch vụ du lịch.

Tám là, từng bước kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý văn hóa từ tỉnh đến cơ sở theo hướng hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa chỉ đạt hiệu quả cao khi tổ chức có hệ thống, chặt chẽ, có sự phối hợp đồng bộ của cấp ủy, chính quyền địa phương, các cơ quan, ban, ngành. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý về văn hóa có tâm huyết, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật. Thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công nghệ số, kiến thức pháp luật về di sản văn hóa cho đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa; trang bị những kỹ năng xử lý tình huống mới, thích ứng linh hoạt trong công tác quản lý văn hóa./.

-------------------------

(1) Phạm Hồng Tung: “Bàn về văn hóa cộng đồng”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 26, 2010, tr. 124
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 316
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 55
(4) Xem: Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xi/nghi-quyet-so-33-nqtw-ngay-962014-hoi-nghi-lan-thu-9-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-ve-xay-dung-va-phat-trien-590
(5) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 216, 34
(6) Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, nhiệm kỳ 2020 -  2025
(7) Xem: Nguyễn Thị Phương Châm: “Nguồn lực văn hóa truyền thống trong xây dựng nông thôn mới hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo “Thể chế, chính sách và nguồn lực cho phát triển văn hóa”, 2022
(8) Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang: Báo cáo số 67/BC-UBND, ngày 13-4-2023, về kết quả triển khai thực hiện chính sách pháp luật về di sản văn hóa trên địa bàn toàn tỉnh Tuyên Quang
(9) Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Báo cáo số 81/SVHTTDL-QLVHGĐ, ngày 1-2-2023, về việc báo cáo số liệu tổng hợp lĩnh vực văn hóa cơ sở năm 2022