Dân là gốc, dân làm chủ - vị trí trung tâm trong tác phẩm "Sửa đổi lối lầm việc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh
"Sửa đổi lối làm việc" được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1947, hai năm sau khi giành được độc lập và thiết lập chính quyền cách mạng - chính quyền công - nông đầu tiên ở Đông - Nam châu Á. Trong Tuyên ngôn độc lập, Người đã viết về hai mục tiêu: độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân trong đất nước thống nhất, mà mục tiêu cuối cùng là tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đó chỉ có thể là xã hội chủ nghĩa, con đường duy nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Có thể coi "Sửa đổi lối làm việc" là sự tiếp bước nối dài nhằm hiện thực hóa những mục tiêu, nguyện vọng được đề cập trong "Tuyên ngôn độc lập".
Đọc thật kỹ cuốn sách, có thể thấy ở mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ của Người là nỗi lo khi Đảng ta cầm quyền, thì với người cán bộ lãnh đạo, người cán bộ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, nhân dân là gì đối với họ? Chỉ khi đã xác định, hiểu quyền lợi chính đáng, rõ vai trò, tầm quan trọng và sức mạnh của quần chúng nhân dân, mới có thể xác định được lối làm việc đúng đắn, hiệu quả, đem lại lợi ích thiết thực nhất cho chính quyền, cũng chính là cho nhân dân. Có lẽ những trăn trở ấy thôi thúc Người viết nên một tác phẩm có giá trị lý luận và thực tiễn cơ bản, lâu dài trong việc xây dựng phong cách, đạo đức người lãnh đạo, người cán bộ: phải luôn luôn lấy dân làm gốc, không được lạm quyền hay phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân, phương hại đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và Nhà nước với dân.
Thực ra, ngay từ cách đặt vấn đề: "Sửa đổi lối làm việc", chúng ta đã có thể thấy ngay câu trả lời: vì sao cán bộ đảng viên phải sửa đổi lối làm việc? sửa đổi lối làm việc vì mục đích gì, và vì ai, nếu như không phải vì dân, cho dân và phục vụ lợi ích của nhân dân! Bởi, chỉ có thế, dân mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, một lòng tin yêu theo Đảng; Đảng mới mạnh từ gốc, đất nước mới phát triển bền vững.
Xuyên suốt cả sáu chương của tác phẩm, vị trí, vai trò trung tâm của nhân dân luôn hiển hiện. Ngay từ chương đầu tiên (Phê bình và sửa chữa), Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại"(1). Bởi lẽ, dân chúng "rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng"(2), biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra. "Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết"(3). Cách nhìn này là căn cứ nền tảng quan trọng để Hồ Chí Minh đưa ra những luận điểm, luận cứ sắc sảo, logic và đầy tính thuyết phục nhằm minh chứng cho yêu cầu cán bộ, đảng viên phải sửa đổi lối làm việc.
Có thể nói, tư tưởng "dân là gốc", dân làm chủ toát lên từ mọi khía cạnh, mọi nội dung được đề cập trong "Sửa đổi lối làm việc". Điều này được thể hiện rõ qua xem xét các phương diện chủ yếu sau:
Về thực chất, nhân dân chính là đối tượng cụ thể, trực tiếp và trọng tâm mà “Sửa đổi lề lối làm việc” hướng tới, bởi mọi vấn đề được đề cập đến trong tác phẩm, xét cho cùng đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, khẳng định và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tập hợp ý chí và sức mạnh của dân trong khối đại đoàn kết dân tộc. |
Về đối tượng tác động của "Sửa đổi lối làm việc" nhằm đến trước tiên chính là đội ngũ cán bộ, đảng viên làm việc trong bộ máy chính quyền từ cấp Trung ương đến cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu "Mỗi người phải đọc kỹ càng các tài liệu, rồi tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình, có khuyết điểm gì và ưu điểm gì", để thảo luận và phê bình, thấy "Người có ưu điểm thì phải cố gắng thêm, và người khác phải cố gắng bắt chước. Mọi người phải tích cực sửa chữa khuyết điểm của mình và giúp anh em sửa chữa khuyết điểm của họ"(4). Chỉ khi cán bộ, đảng viên nhìn nhận rõ những ưu điểm, khuyết điểm của mình, mới có thể rút ra được kinh nghiệm, bài học để làm việc tốt hơn.
Song nhìn rộng ra, đối tượng mà tác phẩm hướng tới cũng chính là nhân dân, bởi: Thứ nhất, cán bộ, đảng viên, xét ở khía cạnh công dân, trước hết là những người dân sống trong xã hội, qua quá trình học tập, đào tạo, tu dưỡng mà họ dần trưởng thành, trở thành những "công bộc của dân"; Thứ hai, Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề sửa đổi lối làm việc của cán bộ, nhưng cũng chính là nhằm mục đích để quần chúng nhân dân hiểu rõ vai trò, vị trí quan trọng của mình đối với bộ máy chính quyền nói chung, mọi hoạt động, mọi sự cải cách, đổi mới đều nhằm mục tiêu vì lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Như vậy, có thể khẳng định, về thực chất, dân chính là đối tượng cụ thể, trực tiếp và trọng tâm mà tác phẩm hướng tới. Và nếu mới chỉ dừng ở tìm hiểu đối tượng tác động của tác phẩm, đã có thể thấy rõ tư tưởng trọng dân hiển hiện. Điều này là minh chứng rõ rệt cho tư duy chính trị sắc sảo và nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của người "chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân" trong đời sống chính trị - xã hội.
Về mục đích: "Sửa đổi lối làm việc" ra đời nhằm mục đích trực tiếp kêu gọi, thúc đẩy đông đảo cán bộ, đảng viên nhìn nhận lại cách làm việc của mình và soi xét bản thân, để phát huy những ưu điểm, hạn chế khuyết điểm. Đồng thời, từng bước nâng cao hiệu quả, chất lượng công việc, và nâng cao đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, lấy đó làm cơ sở tăng cường tính chiến đấu và củng cố sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ khi Đảng có bộ máy cán bộ trong sạch, vững mạnh, mới có đủ bản lĩnh lãnh đạo và vạch ra đường lối phát triển đúng đắn đáp ứng những yêu cầu vô cùng đa dạng của thực tiễn, phục vụ thiết thực nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Sâu xa hơn, những nội dung được đề cập trong tác phẩm xét cho cùng đều hướng tới mục tiêu giúp cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiểu rõ mối liên hệ gắn bó mật thiết giữa họ, bởi dân chính là cán bộ và cán bộ cũng là nhân dân, từ nhân dân và do nhân dân mà ra. Chỉ khi đặt mình ở vị trí của nhân dân, hòa hợp với nhân dân, mới thực sự gần gũi được với họ, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của họ và tập hợp được họ đứng trong khối đại đoàn kết thống nhất toàn dân tộc. Chính vì vậy, Người viết: "cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo, v.v. của chúng ta, đều phải lấy câu này là khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng" " (5).
Cái thần của “Sửa đổi lề lối làm việc” không chỉ nằm ở mỗi câu chữ, mà đã vượt ra ngoài khuôn khổ nội dung thuần túy để tác động mạnh mẽ, sâu sắc vào nhận thức của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, thúc đẩy họ biến ý thức cách mạng thành hành động cách mạng, để cùng hướng đến mục tiêu chung là xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân chủ, giàu đẹp văn minh. |
Về nội dung: Xét một cách tổng thể, "Sửa đổi lối làm việc" thực chất là sửa đổi lề lối quan hệ với nhân dân. Trong điều kiện nước nhà mới giành được độc lập, khi đó lực lượng của Đảng chưa đông, tất cả đang tập trung vào cuộc kháng chiến để bảo vệ chính quyền mới thành lập, Hồ Chí Minh đã sáng suốt nhìn ra mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng - Nhà nước với nhân dân: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Người viết: "Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng"(6); "Nếu chúng ta hỏi cán bộ: Việc đó làm cho ai, đối với ai phụ trách?", chắc số đông cán bộ sẽ trả lời: "Làm cho Chính phủ hoặc cho Đảng, phụ trách trước cấp trên". Câu trả lời đó chỉ đúng một nửa. Nếu chúng ta lại hỏi: "Chính phủ và Đảng vì ai mà làm việc đó? Và phụ trách với ai?", thì e nhiều cán bộ không trả lời được. Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân"... Nhưng nhiều cán bộ chưa hiểu, cho nên trong lúc làm việc, thường sai lầm; đến nỗi chia cán bộ Chính phủ và Đảng ra một phía, quần chúng ra một phía... Vì cán bộ và đảng viên không hiểu rõ hai lẽ: vì ai mà làm, đối ai phụ trách"(7). Với lập luận này, Hồ Chí Minh đã đặt nhân dân là đối tượng trọng tâm của việc sửa đổi lối làm việc.
Chính bởi vậy, Người căn dặn cán bộ, đảng viên trước hết phải có lòng tin vào quần chúng nhân dân: "Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ"(8), và phải biết dựa vào ý kiến của dân chúng để chỉnh sửa cán bộ và tổ chức, từ đó không ngừng nâng cao năng lực phục vụ nhân dân.
Thứ hai, cán bộ, đảng viên phải học quần chúng. Người cho rằng, "Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng"(9), nên chúng ta phải học, phải hỏi, phải hiểu dân chúng. Người phê bình một số cán bộ thường ngộ nhận cho là dân dốt nên không thèm học hỏi dân, hoặc khi làm được một số việc thành công đã vội cho mình là tài giỏi, và cảnh báo: "Từ xưa đến nay, quần chúng không bao giờ tin cậy và yêu mến những kẻ tự cao, tự đại, những kẻ có óc lãnh tụ, tự xưng ta đây là anh hùng..."(10).
Thứ ba, cán bộ, đảng viên phải giữ mối liên hệ chặt chẽ với dân, làm việc gì cũng phải giữ nguyên tắc bàn bạc cùng dân và giải thích cho dân hiểu, để khơi dậy không khí dân chủ và tinh thần hăng hái ở họ. Trong tác phẩm, khá nhiều lần cụm từ "từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng" và "lãnh đạo liên hợp với quần chúng" được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, coi đó là những nguyên tắc quan trọng trong quá trình lãnh đạo, làm việc của tổ chức Đảng và đảng viên, bởi lẽ, "Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, ...còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình"(11). Có dân chủ, mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến, tạo không khí hăng hái thi đua rộng khắp. Đây chính là biện pháp thiết thực "đưa chính trị vào giữa dân gian", tránh tình trạng việc gì cũng từ "trên dội xuống"; thay vào đó, việc gì cũng phải "từ dưới lên". Nếu không, rất dễ dẫn đến xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn - điều rất nguy hiểm đối với sự tồn vong của mỗi đảng cầm quyền.
Thứ tư, cán bộ, đảng viên nói và làm gì nội dung cũng phải thiết thực với dân, xuất phát từ lợi ích của dân. Người căn dặn: "Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng... Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng"(12). Người yêu cầu cán bộ, đảng viên không nên khư khư giữ theo "sáo cũ", khi nói trước quần chúng phải dùng những lời lẽ, thí dụ giản đơn, dễ hiểu. Trong huấn luyện, cũng phải thiết thực, sao cho những người đến học, học rồi về địa phương có thể thực hành được ngay.
Thứ năm, cán bộ, đảng viên đánh giá đúng vai trò, sức mạnh của quần chúng song tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng, bởi "Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiên tiến, có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu"(13). Cán bộ, đảng viên lắng nghe ý kiến của quần chúng, song không phải dân nói gì cũng nhắm mắt nghe theo, mà phải biết chọn lựa, vận dụng những ý kiến tích cực, tiến bộ vào công việc, để phục vụ dân tốt hơn.
Như vậy, nhìn tổng thể, có thể khẳng định, quan điểm "dân là gốc", dân làm chủ với những ý nghĩa sâu xa, nhân văn không chỉ hiển hiện trong từng câu, từng chữ, mà đã vượt ra ngoài khuôn khổ nội dung tác phẩm để hòa mình vào thực tiễn sửa đổi lối làm việc của đông đảo đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, thúc đẩy quần chúng nhân dân hiểu rõ hơn về vai trò và sứ mệnh lịch sử của mình, tích cực soi mình, học tập theo những lời chỉ dẫn trong tác phẩm. Đó là căn cứ quan trọng tạo nên bước tiến vượt bậc về chất lượng cán bộ, chất lượng con người, chất lượng công việc, thúc đẩy đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng như quần chúng nhân dân tích cực tham gia công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh.
Nỗi lo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lời cảnh báo của Người về những tiêu cực, những căn bệnh đã diễn ra trong lối làm việc của cán bộ như: bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh quan liêu, bè phái, cá nhân chủ nghĩa..., cùng với việc chỉ rõ cách chữa trị những căn bệnh này được đề cập trong tác phẩm, cho đến nay vẫn giữ nguyên tính đúng đắn và giá trị thời sự, thực sự trở thành cẩm nang quý báu cho mỗi cán bộ, đảng viên soi mình và chỉnh mình. Chỉ khi sửa được những chứng bệnh ấy, người cán bộ mới thực sự gần gũi nhân dân, nắm bắt được tình hình, tâm tư, nguyện vọng của họ, lấy đó làm cơ sở quan trọng đề ra đường lối, chính sách hợp lý, thiết thực, thực sự vì quần chúng và phục vụ quần chúng.
Nhìn lại 62 năm Đảng ta cầm quyền, đất nước từng bước có những đổi thay kỳ diệu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua được nhân dân ta và bè bạn quốc tế đánh giá cao, càng làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, chúng ta không được chủ quan, tự mãn, càng không được bỏ qua hoặc xem thường những mặt yếu kém, những tiêu cực đang cản trở sự phát triển của đất nước. Hiện nay, tình trạng suy thoái trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, trong xã hội vẫn tồn tại, những tiêu cực trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa chấm dứt, các căn bệnh mà Bác Hồ chỉ ra trong "Sửa đổi lối làm việc" vẫn chưa được chữa trị có hiệu quả. Thậm chí, có căn bệnh ngày một nặng lên như: quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kèn cựa địa vị, mất đoàn kết, chạy chức chạy quyền, độc đoán, kém kỷ luật, thiếu ý thức trách nhiệm v.v... Tình trạng suy thoái với những tiêu cực đó làm cho nhân dân lo lắng, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước bị xói mòn.
Sáu mươi năm đã trôi qua kể từ khi ra đời, song tác phẩm đã, đang và sẽ vẫn được coi là cuốn cẩm nang quý báu đối với mỗi chúng ta bởi tính thời sự, tính nhân văn sâu sắc của nó. |
Trước tình hình trên, căn cứ vào Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Trung ương Đảng đã phát động Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Đó là cơ hội quý báu thúc đẩy mỗi đảng viên, cán bộ học tập, tu dưỡng, nhìn nhận lại những việc làm tốt hoặc chưa tốt để kịp thời sửa đổi, nhằm phục vụ nhân dân tốt hơn.
Cùng với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, cần tiến hành đồng thời việc xây dựng thể chế một cách cụ thể, thiết thực. Bởi lẽ, việc cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức chính là xây dựng phẩm chất chính trị với những chuẩn mực mà Bác Hồ đã chỉ ra trong "Sửa đổi lối làm việc" để trở thành những người cán bộ tốt; còn xây dựng thể chế là biện pháp để nhà cầm quyền thực thi việc quản lý, điều hành công việc trên nguyên tắc đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Thể chế, mà quan trọng nhất, cơ bản nhất là thể chế dân chủ, có tác dụng kiểm soát và ngăn ngừa sự lộng quyền trong sử dụng quyền lực. Những cán bộ, đảng viên (đặc biệt là cán bộ lãnh đạo) nếu không có đạo đức thì dù năng lực chuyên môn, nghiệp vụ có giỏi đến mấy cũng khó có thể hoàn thành được nhiệm vụ và trách nhiệm trước nhân dân một cách toàn vẹn. Do đó, mỗi đảng viên, cán bộ phải thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, phải tu dưỡng, rèn luyện cho được tư cách người cách mạng, phải hiểu rõ và quán triệt nguyên tắc gần dân, thương dân, tin dân và vì dân. Nếu không thực hiện được yêu cầu này, thì Đảng không còn sức sống, cũng như dân không còn là gốc, không thực hiện và phát huy được quyền làm chủ. Như vậy, tất yếu dẫn đến hệ quả là mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng chỉ còn là lời nói suông, quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân không còn là máu thịt, và tất yếu cách mạng sẽ thất bại.
Với ý nghĩa ấy, "Sửa đổi lối làm việc" thực sự là một cuốn cẩm nang quý báu, là lời hiệu triệu, là bài hịch có tác động mạnh mẽ, rộng khắp đến không chỉ phong cách, lối làm việc của toàn bộ hệ thống chính quyền và mỗi cán bộ, đảng viên, mà còn đem lại sự hứng khởi, tin tưởng cho đông đảo quần chúng nhân dân, giúp họ hiểu rõ rằng: mọi việc mà Đảng, Chính phủ và cán bộ chúng ta làm đều vì hạnh phúc, ấm no của nhân dân, phục vụ nhân dân. Chính vì lẽ này, khiến nhân dân càng thêm tin Đảng, yêu cán bộ, ra sức đồng lòng cùng Đảng xây dựng, củng cố đất nước phát triển vững mạnh.
(1) (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 5, tr 238
(2), (4) Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr 293, tr 232
(5), (6), (7) Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr 248, tr 249, tr 245
(8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr 246 , tr 293, tr 256
(11), (12), (13) Hồ Chí Minh: Sđd, t 5, tr 285, tr 248, tr 296
Cam-pu-chia: Thủ tướng Hun Sen sẽ tái ứng cử (14/01/2008)
Đoàn kết tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh (12/01/2008)
- Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Một số điểm nghẽn chính sách trong phát triển mô hình kinh tế bao trùm ở Việt Nam: Nhìn từ thực tế vùng và hoạt động của doanh nghiệp
- Con đường trỗi dậy kinh tế của Hàn Quốc - một số vấn đề gợi mở từ phương diện chính sách
- Giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, góp phần xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực, nền tảng cho sự phát triển bền vững vùng Tây Nguyên trong bối cảnh mới
- Phong cách nêu gương Hồ Chí Minh - Sức lan tỏa trong thực hiện quy định nêu gương của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị hiện nay
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, giảm tầng nấc trung gian, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý