Nhóm các nền kinh tế mới nổi năm 2021 và triển vọng

PGS, TS. PHẠM THỊ THANH BÌNH - VŨ THỊ PHƯƠNG DUNG
21:15, ngày 04-06-2022

TCCS - Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS)(1) có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các thách thức toàn cầu, như ứng phó với đại dịch COVID-19 và phục hồi nền kinh tế thế giới. BRICS đặt mục tiêu sẽ trở thành nền kinh tế thịnh vượng nhất thế giới. Tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế của BRICS không mạnh như giai đoạn trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát, song BRICS vẫn là “điểm sáng” của nền kinh tế toàn cầu.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng thống Nga Vladimir Putin, Tổng thống Brazil Jair Bolsonaro, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Tổng thống Nam Phi Cyril Ramaphosa tại cuộc họp lãnh đạo các nước nhóm BRICS ở Osaka, Nhật Bản, ngày 28-6-2019_Ảnh: AFP/TTXVN

Tăng trưởng kinh tế BRICS năm 2021

Năm 2021, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của khối BRICS đạt hơn 23,5 nghìn tỷ USD, cao hơn GDP của Mỹ (22,68 nghìn tỷ USD). Trong đó, Trung Quốc có GDP lớn nhất trong khối BRICS, đạt 16,86 nghìn tỷ USD và bốn quốc gia còn lại (Bra-xin, Nga, Ấn Độ và Nam Phi) đều dưới 3 nghìn tỷ USD. Cụ thể là:

Năm 2021, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bra-xin đạt mức xấp xỉ 5%, song vẫn là mức thấp do phải chịu tác động nặng nề từ đại dịch COVID-19 và sự suy giảm của hoạt động nông nghiệp - một trong những lĩnh vực chủ chốt đóng góp cho nền kinh tế Bra-xin. Điểm sáng nhất là tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ, đạt 18,2% năm 2021(2). Do giá nhiên liệu tiếp tục tăng mạnh trên thị trường quốc tế khiến chi phí vận tải đắt đỏ hơn và kéo theo chỉ số giá tiêu dùng tăng 9,26%, các sản phẩm và dịch vụ khác đều tăng giá. Tháng 11-2021, tỷ lệ lạm phát tăng 0,95%, chạm mức cao nhất kể từ năm 2015. Để kiểm soát lạm phát, Ngân hàng Trung ương Bra-xin (BCB) đã tăng lãi suất cơ bản lên 9,25% - mức cao nhất kể từ năm 2017 và cho biết sẽ tiếp tục tăng lãi suất cho đến khi ngăn chặn được đà tăng của lạm phát. Năm 2021, BCB đã tăng lãi suất thêm 7,25% - đây là chiến dịch thắt chặt chính sách tiền tệ mạnh nhất trong các nền kinh tế lớn trên thế giới. Mặc dù vậy, năm 2021, tỷ lệ lạm phát của Bra-xin vẫn cao (đạt mức 10,42%). Bra-xin đặt ra mục tiêu đưa mức lạm phát giảm xuống còn 3,5% thông qua giảm giá điện năm 2022. 

Chính phủ Bra-xin dự báo nền kinh tế lớn nhất Mỹ La-tinh sẽ có tốc độ tăng trưởng đạt 2,5% vào năm 2022(3). Chính phủ Bra-xin trợ cấp xã hội cho các gia đình nghèo và có kế hoạch nâng hỗ trợ tín dụng lên mức tối thiểu 400 real/tháng (tương đương 70 USD/tháng), mở rộng phạm vi đối tượng thụ hưởng, từ 14,7 triệu hộ gia đình lên khoảng 17 triệu hộ gia đình. Để có nguồn tài chính cần thiết phục vụ chương trình này, Chính phủ Bra-xin dự kiến tăng mức trần chi tiêu công và hoãn thanh toán một phần các khoản nợ của Nhà nước.

Đối với Nga, năm 2021, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đạt 4,6% - mức tăng mạnh nhất kể từ năm 2008(4) - nhờ có sự huy động và chuẩn bị tốt trước cú sốc kinh tế do tác động của đại dịch COVID-19. Thậm chí, theo dự báo của Tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s thì tốc độ tăng trưởng GDP của Nga năm 2021 là 4,8%, bởi nền kinh tế của Nga còn được hỗ trợ bởi sự gia tăng sản lượng xuất khẩu dầu mỏ và nhu cầu của người tiêu dùng. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5%. Sản lượng ngũ cốc thấp hơn năm 2020 nhưng vẫn đạt kết quả tích cực. Dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng khoảng 11 tỷ USD (tháng 6-2021). Đầu tư, xây dựng, vận tải hàng hóa và thương mại bán lẻ gia tăng với tốc độ ổn định. Lần đầu tiên trong lịch sử, Nga xây dựng được 90 triệu mét vuông nhà ở trong năm 2021. Tỷ lệ thất nghiệp thấp (ở mức 4,3%) và lạm phát ở mức 8%(5). Mức tăng trưởng kỷ lục này của Nga có được là nhờ vào ba nhân tố sau: Một là, giá dầu mỏ và khí đốt tăng cao. Xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt chiếm khoảng 40% nguồn thu ngân sách của Nga. Do giá dầu tăng cao, Nga có cơ hội đạt thặng dư ngân sách xấp xỉ mức 0,45% GDP (lần đầu tiên kể từ năm 2011), so với dự kiến thâm hụt ngân sách 1,3% GDP. Giá năng lượng tăng cao cũng được xem là một trong những yếu tố giúp hỗ trợ sự phục hồi của nền kinh tế Nga năm 2021; hai là, hoạt động xuất, nhập khẩu tăng. Trong năm 2021, tổng kim ngạch thương mại của Nga đạt 785 tỷ USD, tăng 38% so với năm 2020, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 491,58 tỷ USD, tăng 45,8% so với năm 2020, kim ngạch nhập khẩu đạt 293,42 tỷ USD, tăng 26,7% so với năm 2020; ba là, chi tiêu cho tiêu dùng tăng. Năm 2021, người dân Nga đã chi tiêu mạnh hơn cho các khoản mua sắm lớn, nhất là các loại mặt hàng tiêu dùng lâu bền và đắt đỏ. Doanh số bán ô tô, đồng hồ, điện thoại thông minh và đồ trang sức ở Nga đều tăng lên 25%.

Khai thác dầu khí ở Nga_Nguồn: Bloomberg

Là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới, GDP của Ấn Độ tăng 8,4% (quý II-2021)(6). Hoạt động dịch vụ hành chính công và quốc phòng tăng trưởng mạnh nhất ở mức 17,4%. Chi tiêu chính phủ tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2020. Lãi suất thấp đã thúc đẩy tiêu dùng tăng cao. Thâm hụt tài khóa năm 2021 được cải thiện tốt hơn thông qua các khoản thu ngân sách. Nông nghiệp đạt mức tăng trưởng 4,5% do vụ mùa bội thu. Hoạt động sản xuất tăng 5,5%, phản ánh sự phục hồi nhu cầu tiêu dùng trong nước. Tháng 7-2021, kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ tăng 47,9% so với cùng kỳ năm 2020 và đạt mức kỷ lục 35,17 tỷ USD(7). Sản lượng xuất khẩu của Ấn Độ sang Mỹ, Các Tiểu vương quốc A-rập thống nhất (UAE) và Bỉ tăng mạnh nhờ vào các sản phẩm đá quý, đồ trang sức và hàng hóa kỹ thuật. Lĩnh vực xây dựng, thương mại, khách sạn, vận tải và dịch vụ tài chính đều đạt mức tăng trưởng từ 7% - 8%(8). Ấn Độ có được những tín hiệu phục hồi này là nhờ sự nỗ lực của Chính phủ trong thúc đẩy tiêu dùng thông qua chi tiêu chính phủ và lãi suất thấp. Bên cạnh đó, Ấn Độ nới lỏng chính sách tài khóa và tiền tệ để giúp nền kinh tế vượt qua đại dịch COVID-19. Chính phủ Ấn Độ cam kết tiếp tục hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ưu tiên chi tiêu cho kết cấu hạ tầng trong dự toán ngân sách năm 2021.

Ấn Độ ghi nhận mức tăng trưởng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dương (tăng 13%) nhờ vào các khoản đầu tư trong lĩnh vực chuyển đổi số. Ấn Độ thu hút số lượng kỷ lục các thỏa thuận trong lĩnh vực tư vấn công nghệ thông tin (IT) và công nghệ số, bao gồm các nền tảng thương mại điện tử, dịch vụ xử lý dữ liệu và thanh toán điện tử. Việc áp dụng Thuế hàng hóa và dịch vụ (GST) đưa Ấn Độ trở thành thị trường thu hút lớn các nhà đầu tư (với GDP là 2,5 nghìn tỷ USD và dân số 1,32 tỷ người). Năm 2021, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện kế hoạch đầu tư, sản xuất tại Ấn Độ, như Samsung Display Noida - Công ty sản xuất điện thoại thông minh của Hàn Quốc đã đầu tư 650,42 triệu USD để chuyển nhà máy sản xuất màn hình di động và công nghệ thông tin từ Trung Quốc sang bang Uttar Pradesh (Ấn Độ) và đã nhận được nhiều ưu đãi của Chính phủ Ấn Độ. 

Trong quý IV-2021, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt 4,0%; sụt giảm so với quý I, II và III năm 2021 lần lượt là 18,3%, 7,9% và 4,9%. Sự giảm tốc này là do tác động của một số yếu tố, như 1- Thị trường bất động sản. Điển hình là cuộc khủng hoảng của Tập đoàn bất động sản China Evergrande Group, khi đã xây dựng và vay mượn quá nhiều; không đáp ứng được thời hạn thanh toán dẫn đến khủng hoảng nợ ngày càng trầm trọng. Do lĩnh vực bất động sản chiếm khoảng 25% GDP của Trung Quốc, những khó khăn của lĩnh vực bất động sản đã gây sức ép lớn đối với toàn bộ nền kinh tế; 2- Khủng hoảng năng lượng, tình trạng thiếu điện, dịch bệnh bùng phát, khiến cho tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm mạnh; 3- Khủng hoảng nhân khẩu học. Tỷ lệ sinh của Trung Quốc đã giảm xuống mức thấp kỷ lục, năm 2020 là 8,52 ca sinh nở/1.000 người (mức thấp nhất kể từ khi hoạt động thu thập dữ liệu này được thực hiện vào năm 1978). Điều này dẫn đến nguy cơ xảy ra khủng hoảng về nhân chủng học ở Trung Quốc do lực lượng lao động già hóa nhanh, tỷ lệ sinh thấp dẫn đến tốc độ tăng trưởng dân số ở mức thấp nhất trong nhiều thập niên và nền kinh tế bị trì trệ. Sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc đang gây thêm rủi ro cho kinh tế toàn cầu.

Tuy nhiên, điểm nổi bật là năm 2021, FDI vào Trung Quốc đạt 163 tỷ USD. Trung Quốc là quốc gia đứng đầu trong thu hút FDI nhiều nhất với mức tăng trưởng nhanh trong các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và các thương vụ sáp nhập xuyên quốc gia (M&A), chủ yếu trong các ngành công nghệ thông tin và truyền thông (ICT), dược phẩm. Đa số các doanh nghiệp được khảo sát vẫn đạt lợi nhuận ở Trung Quốc và hơn 40% có kế hoạch gia tăng đầu tư vào Trung Quốc trong năm 2022.

Tháng 3-2020, Nam Phi bắt đầu thực hiện các lệnh phong tỏa với cấp độ khác nhau do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Từ đó đến nay, nền kinh tế châu Phi đã ghi nhận mức tăng trưởng dương theo quý. Tuy nhiên, đến quý III-2021, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm 1,5% do bị ảnh hưởng bởi các cuộc bạo loạn và những hạn chế nghiêm ngặt để ngăn chặn sự lây lan của đại dịch COVID-19. Tháng 7-2021, hàng nghìn doanh nghiệp tại hai trung tâm kinh tế quan trọng ở Nam Phi là Gauteng và KwaZulu-Natal đã phải đóng cửa. Tình trạng bất ổn chính trị khiến nền kinh tế Nam Phi chịu thiệt hại khoảng 50 tỷ rand (tương đương 3,3 tỷ USD)(9) và khiến ít nhất 150.000 người đứng trước nguy cơ mất việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp của Nam Phi tăng lên 34,4% (quý II-2021), đây là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 khi bắt đầu thực hiện tổng hợp dữ liệu thất nghiệp. Hầu hết lao động thất nghiệp làm việc trong lĩnh vực tài chính, dịch vụ và công nghiệp.

Nam Phi cũng là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khu vực châu Phi bởi đại dịch COVID-19. Năm 2021, tốc độ tăng trưởng kinh tế Nam Phi đạt 4,9%, thấp hơn so với mức 6,4% của năm 2020(10), hoạt động sản xuất ở Nam Phi giảm 4,3%, các hoạt động thương mại, ăn uống và lưu trú giảm 5,5%, hoạt động nông nghiệp giảm 13,6%, mức sụt giảm lớn nhất trong giai đoạn 2016 - 2021. Hiện này, ưu tiên lớn nhất của Chính phủ Nam Phi là bảo đảm nền kinh tế phục hồi càng nhanh càng tốt, để có thể tạo ra việc làm và giúp các doanh nghiệp đứng vững, phát triển trở lại.

Một số vấn đề đặt ra và triển vọng

Theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), sự hồi phục kinh tế của các nước thành viên BRICS được dự báo sẽ khác nhau, phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của khủng khoảng y tế, mức độ chống chịu của từng nước và tác động tiêu cực của cuộc xung đột Nga - U-crai-na.

Đối với Nga, điểm đáng lo ngại là vấn đề nhân khẩu học, tuổi thọ trung bình của người Nga đã giảm do hệ lụy của đại dịch COVID-19, điều này sẽ tác động đến lực lượng lao động trong những năm tới. Có thể nói, đại dịch COVID-19 đã dẫn tới “xu hướng tiêu cực trong nhân khẩu học” và “sụt giảm tuổi thọ” của người Nga. Theo Nghiên cứu của Đại học Oxford (Anh), Nga xuất hiện tình trạng giảm tuổi thọ nhiều nhất, với 2,33 năm đối với nam và 2,14 năm đối với nữ(11). Bên cạnh đó, Nga còn đang phải đối mặt với sức ép gia tăng trên mặt trận kinh tế từ Mỹ và các nước phương Tây. Mỹ đã chấm dứt quan hệ thương mại bình thường với Nga, mở đường cho việc tăng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Nga. Ngoài Mỹ, các thành viên khác của Nhóm các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới (G-7) và Liên minh châu Âu (EU) cũng có bước đi tương tự trong việc thay đổi quy chế thương mại với Nga. Đặc biệt, cuộc xung đột Nga - U-crai-na khiến GDP của Nga được dự báo sẽ giảm 11,2% (vào năm 2022) bởi ảnh hưởng từ các lệnh trừng phạt của Mỹ và các nước phương Tây. Các thị trường mới nổi và các nước đang phát triển ở châu Âu và Trung Á cũng sẽ chịu những tác động nặng nề. Bộ Phát triển kinh tế Nga đánh giá, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nga trong giai đoạn 2022 - 2024 sẽ suy giảm ở mức 6% GDP do các tác động từ sự trừng phạt của Mỹ và phương Tây liên quan đến khủng hoảng U-crai-na. Tuy nhiên, bất chấp các lệnh trừng phạt, Quý I-2022, kinh tế Nga vẫn có thặng dư tài khoản vãng lai (xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu) cao kỷ lục, đạt 157,8 tỷ USD và giá trị thương mại xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đạt 58,2 tỷ USD, tăng hơn 2,5 lần so với quý I-2021.

Đối với Ấn Độ, với mục tiêu đưa Ấn Độ trở thành nền kinh tế có GDP đạt mức 5.000 tỷ USD và là cường quốc toàn cầu vào năm 2024 - 2025 là điều khó trở thành hiện thực. Bởi lẽ, năm 2021, GDP của Ấn Độ chưa đến 3.000 tỷ USD thì để tăng lên 5.000 tỷ USD vào năm 2025, nền kinh tế khu vực Nam Á phải đạt tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 13%/năm, là điều khó xảy ra trong bối cảnh dịch bệnh chưa thể kiểm soát như hiện nay. Kinh tế Ấn Độ đang dần hồi phục sau hai đợt sóng liên tiếp của đại dịch COVID-19. Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI) dự báo, năm 2022, tốc độ tăng trưởng của Ấn Độ sẽ ở mức 9,5% GDP. Cùng với những lo ngại về tốc độ tăng trưởng, kiểm soát lạm phát cũng là nỗi lo lớn đối với Ngân hàng Trung ương Ấn Độ. Để đối phó với những tác động đối với nền kinh tế, RBI đã công bố hàng loạt các biện pháp, chính sách mở rộng, bao gồm cung cấp các thanh khoản đặc biệt và tái cơ cấu khoản vay cho những người đi vay.

Đối với Trung Quốc, quốc gia này đặt mục tiêu nâng cao sức mạnh kinh tế trong giai đoạn mới (2021 - 2025). Kế hoạch đặt trọng tâm vào cải thiện điều kiện kinh tế trong nước, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và an ninh quốc gia. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 (2021 - 2025) của Trung Quốc, các vấn đề cần giải quyết được đưa ra như tỷ lệ thất nghiệp, tiêu thụ năng lượng và phát thải khí các-bon đi-ô-xít nhằm cải thiện cuộc sống của người dân và chất lượng phát triển. Trung Quốc được kỳ vọng sẽ tiếp tục dẫn đầu trong quá trình phục hồi toàn cầu sau đại dịch COVID-19. Trung Quốc tập trung thúc đẩy các lĩnh vực tiêu dùng, bảo vệ môi trường, cải cách và mở cửa thị trường nhằm mang lại cơ hội lớn cho doanh nghiệp.

Công nhân làm việc tại nhà máy sản xuất máy móc ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc_Ảnh: THX/TTXVN

Ngân hàng Thế giới (WB) dự đoán, tốc độ tăng trưởng của BRICS trong năm 2022 đạt trung bình hơn 5% GDP, cao hơn so với mức dưới 4% GDP của G-7. Vì vậy, BRICS có nền tảng vững chắc để duy trì sự ổn định và tăng trưởng kinh tế lâu dài. Khi đó, BRICS có thể kéo nền kinh tế thế giới đi lên, bởi:

Thứ nhất, BRICS có tính bổ sung kinh tế cao. Bra-xin, Nga, Nam Phi và Ấn Độ có khả năng bảo đảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên mà Trung Quốc cần để duy trì sức sản xuất của mình. Trong khi đó, Trung Quốc có vốn và công nghệ để đầu tư vào các thành viên BRICS còn lại, thúc đẩy công nghiệp hóa phát triển lên các giai đoạn tiếp theo.

Thứ hai, GDP kết hợp của BRICS lớn, ở mức 45 nghìn tỷ USD tính theo sức mua tương đương (PPP), vượt qua 44 nghìn tỷ USD năm 2021 của Nhóm G-7.

Thứ ba, BRICS có nhiều dư địa để mở rộng quy mô và phạm vi nền kinh tế của mình. Năm 2030, BRICS sẽ chiếm khoảng 47% GDP toàn cầu. Bốn trong năm nền kinh tế lớn nhất thế giới là các thành viên của BRICS (năm 2032) và sẽ trở thành nhóm có nền kinh tế chiếm ưu thế, vượt qua G-7 (năm 2050)(12).

Mặc dù BRICS đã trở thành một lực lượng quan trọng trên trường quốc tế bởi các hoạt động kiểm soát dịch bệnh như điều chế, sản xuất vắc-xin phòng, chống dịch bệnh COVID-19 đạt nhiều tiến bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dỡ bỏ dần các hạn chế để mở cửa trở lại nền kinh tế, nhưng vẫn còn không ít rào cản khiến đà phục hồi của các nền kinh tế mới nổi BRICS trở nên mong manh, đó là: 

Thứ nhất, chính sách thắt chặt tiền tệ của Mỹ. Với vai trò của đồng USD và trái phiếu kho bạc Mỹ trong hệ thống tài chính toàn cầu, động thái đẩy nhanh kế hoạch giảm quy mô mua lại tài sản của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) có thể tác động đến tâm lý của các nhà đầu tư với tài sản rủi ro. Dòng vốn đổ vào các thị trường mới nổi sẽ có xu hướng giảm dần. Đồng USD sẽ mạnh lên do vai trò của USD trong dòng chảy thương mại toàn cầu.

Xu hướng biến động của đồng USD cũng sẽ tác động đến các thị trường mới nổi. Nếu đồng USD mạnh lên hoặc nếu Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất, các nhà đầu tư sẽ rút vốn từ các quốc gia mới nổi để tái tập trung đầu tư vào USD. Do đó, các ngân hàng trung ương của một số quốc gia mới nổi sẽ tăng tỷ giá để bảo vệ đồng tiền của mình.

Lịch sử cho thấy, những lần thắt chặt chính sách tiền tệ của Fed, như cắt giảm chương trình nới lỏng định lượng (QE) năm 2013 và nâng lãi suất năm 2018 đều gây ra những đợt bán tháo trên thị trường tài chính toàn cầu. Theo dự báo của Bloomberg, nếu Fed nâng lãi suất 3 lần trong năm 2022 và phát tín hiệu sẽ tiếp tục nâng cho tới khi lãi suất đạt 2,5%, hệ quả sẽ là xuất hiện một cuộc suy thoái kinh tế Mỹ bắt đầu từ năm 2023. Fed nâng lãi suất có thể đồng nghĩa với một cú “hạ cánh cứng” đối với các thị trường mới nổi. Lãi suất ở Mỹ tăng thường kéo theo đồng USD tăng giá và dẫn tới sự tháo chạy của các dòng vốn khỏi các thị trường mới nổi, thậm chí là dẫn tới khủng hoảng tiền tệ.

Thứ hai, sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc. Khi kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại, các nhà xuất khẩu trên thế giới sẽ bị thiệt hại. Đặc biệt là những nước xuất khẩu các sản phẩm sang Trung Quốc, như thực phẩm, nguyên vật liệu xây dựng. Không những vậy, Trung Quốc còn là nhà nhập khẩu chính của nhiều mặt hàng, từ thiết bị cơ bản đến rượu vang. Có thể thấy, bất chấp mức nợ cao và lạm phát tăng vọt, các nhà đầu tư vẫn tin tưởng khi đầu tư vào Bra-xin bởi Trung Quốc là quốc gia nhập khẩu nguyên vật liệu rất lớn từ Bra-xin. Vì vậy, nếu kinh tế Trung Quốc trật bánh, đồng tiền của Bra-xin có thể lao dốc, lạm phát tăng tốc và kinh tế rơi vào khủng hoảng.

Sang năm 2022, nền kinh tế Trung Quốc có thể vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, như cuộc khủng hoảng thanh khoản trong ngành bất động sản và những đợt phong tỏa để kiểm soát đại dịch COVID-19 như Chiến lược “Zero Covid” của Trung Quốc để chống lại biến chủng Omicron. Với sự suy giảm về nguồn vốn và giảm thiểu nhu cầu về nhà ở sẽ làm lĩnh vực bất động sản - lĩnh vực chiếm khoảng 25% nền kinh tế Trung Quốc - có thể giảm sâu hơn.

 Bloomberg đưa ra dự báo, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc sẽ đạt 5,7% trong năm 2022. Tuy nhiên, nếu tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc giảm còn 3%, cả thế giới sẽ bị ảnh hưởng. Các nước xuất khẩu hàng hóa cơ bản sẽ thiếu khách mua, kế hoạch chính sách tiền tệ của Fed có thể phải chuyển hướng, tương tự như khi xảy ra cú sốc sụt giảm trên thị trường chứng khoán Trung Quốc năm 2015.

Thứ ba, sự lây lan của biến chủng Omicron và nguy cơ xuất hiện các biến thể khác. Mối nguy hiểm thứ ba với các thị trường mới nổi chính là sự lây lan của biến thể Omicron và nguy cơ xuất hiện các biến thể khác trong tương lai. Đại dịch COVID-19 với sự xuất hiện của biến thể Omicron vẫn là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới tiến trình phục hồi kinh tế. Các đợt phong tỏa ở Trung Quốc có thể giáng thêm đòn vào các nhà xuất khẩu ở thị trường mới nổi. Sự lây lan của biến thể mới mà các loại vắc-xin hiện tại chưa mang lại nhiều hiệu quả sẽ dẫn đến những nguy cơ cho các nền kinh tế phụ thuộc vào ngành du lịch, do ngân sách của các nước không đủ khả năng chi trả thêm để duy trì ngành du lịch. Như tại Nam Phi, nhằm giải quyết những tác động tiêu cực do đại dịch COVID-19, BRICS đã phê chuẩn gói tín dụng khẩn cấp trị giá 1 tỷ USD hỗ trợ Nam Phi. Gói tín dụng khẩn cấp của BRICS đã giúp Nam Phi nhanh chóng giải quyết những nhu cầu cấp bách. Bởi ngay trước khi dịch bệnh bùng phát trong nước, nền kinh tế Nam Phi đã rơi vào suy thoái nên các hậu quả của đại dịch COVID-19 mang lại khiến tình hình càng trở nên trầm trọng. 

Tóm lại, trong bối cảnh mới hiện nay, chủ nghĩa đa phương chính là “chìa khóa” mở ra tương lai bền vững cho toàn cầu. Chủ nghĩa đa phương mà BRICS theo đuổi là tín hiệu củng cố niềm tin chung của thế giới về tương lai tươi sáng. BRICS cần mạnh mẽ hơn nữa để củng cố sức mạnh đa phương, góp phần thúc đẩy chủ nghĩa đa phương trên toàn thế giới; đóng vai trò tích cực trong việc đối phó với các thách thức toàn cầu. Những kết quả hợp tác đa phương của BRICS sẽ góp phần củng cố các thể chế quản trị toàn cầu. Để tăng cường sức mạnh đa phương, BRICS cần mở rộng hợp tác trên nhiều phạm vi và cấp độ hơn, như trong các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng y tế, xã hội, thúc đẩy thương mại, đầu tư, chống biến đổi khí hậu và phát triển công nghệ, mà trong đó cần tập trung tăng cường thể chế đa phương về biến đổi khí hậu. Bởi, không thể có được sự tăng trưởng kinh tế hay tiến bộ xã hội, nếu không bảo tồn được các nguồn tài nguyên thiên nhiên và giữ cho môi trường trong lành./.

-------------------

(1) Nhóm BRICS gồm 5 nền kinh tế mới nổi là Bra-xin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi
(2) Ngọc Tùng: “Dịch COVID-19 khiến ngành du lịch Brazil thiệt hại nặng nề”, Báo điện tử Thông tấn xã Việt Nam, ngày 14-8-2021, https://ncov.vnanet.vn/tin-tuc/dich-covid-19-khien-nganh-du-lich-brazil-thiet-hai-nang-ne/f72c1037-d505-435e-800f-8af8c34b18ec
(3)  Ngọc Tùng: “Brazil đối mặt với nguy cơ suy giảm kinh tế trong năm 2022”, Báo Tin tức điện tử, ngày 26-10-2021, https://baotintuc.vn/the-gioi/brazil-doi-mat-voi-nguy-co-suy-giam-kinh-te-trong-nam-2022-20211026072321378.htm
(4) Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
(5) Duy Trinh: “Tổng thống Putin: Kinh tế Nga tăng trưởng 4,6% trong năm 2021”, Báo điện tử VietnamPlus, ngày 23-12-2021, https://www.vietnamplus.vn/tong-thong-putin-kinh-te-nga-tang-truong-46-trong-nam-2021/764696.vnp
(6) Anh Tuấn: “Kinh tế Ấn Độ tăng trưởng cao nhất thế giới ở mức 8,4%”,  Thời báo Tài chính Việt Nam, ngày 9-12-2021, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/kinh-te-an-do-tang-truong-cao-nhat-the-gioi-o-muc-84-96921.html
(7) Tiến Hiến: “Xuất khẩu của Ấn Độ trong tháng 7-2021 cao kỷ lục”, Báo Tin tức điện tử, ngày 2-8-2021, https://baotintuc.vn/kinh-te/xuat-khau-cua-an-do-trong-thang-72021-cao-ky-luc-20210802222512416.htm
(8) Anh Tuấn: “Kinh tế Ấn Độ tăng trưởng cao nhất thế giới ở mức 8,4%”,  Tlđd
(9) Tỷ lệ thất nghiệp ở Nam Phi tăng do ảnh hưởng của đại dịch, Cổng thông tin điện tử Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ngày 30-8-2021, https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/an-sinh-xa-hoi-the-gioi.aspx?ItemID=17208&CateID=173
(10)  Ed Stoddard: “South Africa’s economy grew 4.9% in 2021, but headwinds are gathering” (Tạm dịch: Nền kinh tế Nam Phi tăng trưởng 4,9% vào năm 2021, nhưng những khó khăn đang ập đến), ngày 8-3-2022, https://www.dailymaverick.co.za/article/2022-03-08-south-africas-economy-grew-4-9-in-2021-but-headwinds-are-gathering/
(11) Thanh Tâm: “Covid-19 khiến nhân loại mất ít nhất 28 triệu năm tuổi thọ”, Báo điện tử VnExpress, ngày 4-11-2021,  https://vnexpress.net/covid-19-khien-nhan-loai-mat-it-nhat-28-trieu-nam-tuoi-tho-4381116.html
(12) Lâm An: “Ðộng lực tăng trưởng kinh tế toàn cầu”, Báo Nhân dân điện tử, ngày 16-5-2011, https://nhandan.vn/quoc-te-hangthang/%c3%90%e1%bb%99ng-l%e1%bb%b1c-t%c4%83ng-tr%c6%b0%e1%bb%9fng-kinh-t%e1%ba%bf-to%c3%a0n-c%e1%ba%a7u-538991/