Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc: nhìn lại một chặng đường
Về chính trị, trên tinh thần “khép lại quá khứ, mở ra tương lai", các chuyến thăm hữu nghị, các cuộc hội đàm cấp cao giữa hai nước đã diễn ra thường xuyên. Trong những chuyến thăm chính thức, hai bên đã ra 6 thông cáo chung, 4 tuyên bố và ký kết nhiều hiệp định trên mọi lĩnh vực, trở thành cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy quá trình hợp tác toàn diện. Những dấu mốc quan trọng trong quan hệ chính trị hai nước thể hiện qua các sự kiện: Định ra khuôn khổ quan hệ hai nước trong thế kỷ mới với phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và ký Hiệp định biên giới trên đất liền (năm 1999); ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (năm 2000); ký Nghị định thư hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ (năm 2004); thỏa thuận đưa quan hệ hai nước trở thành “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” (năm 2005); thành lập Uỷ ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc (năm 2006); nâng quan hệ hai nước lên tầm “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” và hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên đất liền (năm 2008).
Quan hệ chính trị Việt Nam - Trung Quốc có những đặc điểm nổi bật: 1- Hằng năm, hai nước đều tiến hành các cuộc gặp gỡ cấp cao, hình thành nên cơ chế viếng thăm cấp cao thường niên - đây là điểm khác biệt của quan hệ Việt - Trung trong so sánh quan hệ với các nước láng giềng khác; 2- Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì đều đặn các cuộc gặp gỡ bên lề các diễn đàn của các tổ chức khu vực hoặc quốc tế để trao đổi quan điểm; 3- Các cuộc gặp gỡ giữa các ban, ngành, các bộ, các tổ chức xã hội, kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng... trao đổi hợp tác và giao lưu kết nghĩa có ý nghĩa hỗ trợ, củng cố cho quan hệ ngoại giao chính thức; 4- Trên cơ sở chính sách đối ngoại cởi mở, đa dạng hóa, đa phương hóa mà hai nước theo đuổi và xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, quan hệ đa phương của mỗi nước tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ song phương; 5- Không gian hợp tác giữa hai nước được mở rộng qua kênh đa phương, thông qua các tổ chức quốc tế và khu vực; 6- Quan hệ chính trị giữa hai nước dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc và an ninh, hòa bình, ổn định cho khu vực.
Về kinh tế - thương mại, tính đến năm 2011, hai nước đã ký hơn 50 hiệp định hợp tác về kinh tế hoặc có liên quan đến kinh tế và nhiều thỏa thuận cấp nhà nước, tạo nền tảng pháp lý cho việc hợp tác. Ngoài ra, một số bộ, ngành, địa phương... cũng đã ký kết những văn bản hợp tác kinh tế - mậu dịch song phương. Hai bên đã khai thông và mở thêm các tuyến đường sắt, đường bộ, đường biển, đường hàng không... tạo điều kiện cho giao lưu văn hóa, kinh tế giữa hai nước. Từ năm 2001, hợp tác kinh tế - thương mại được cụ thể hóa bằng những kế hoạch phát triển gắn kết hai nền kinh tế như “hai hành lang, một vành đai”, “một trục hai cánh”, “hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng”; hướng đến cân bằng trong cán cân thương mại; tăng đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam.
Về thương mại song phương, Trung Quốc trở thành một trong những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Kim ngạch mậu dịch giữa hai nước ngày càng gia tăng: mặc dù chịu ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, kim ngạch thương mại hai nước vẫn đạt 21,35 tỉ USD(1) (năm 2009), 30 tỉ USD (năm 2010) (so với năm 1991, con số này chỉ đạt 37 triệu USD). Dấu ấn nổi bật trong quan hệ thương mại giữa 2 nước những năm qua thể hiện ở sự gia tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc với xu hướng khá bền vững (kim ngạch xuất khẩu năm 2000-2009 tăng gấp 3,19 lần, bình quân mỗi năm tăng 13,75%, và nếu so với năm 2005, con số tương ứng là 52% và 11%).
Quan hệ hợp tác đầu tư cũng tăng đáng kể: Nếu tính đến tháng 8-2001, mới có 110 dự án đầu tư của Trung Quốc được cấp phép với tổng số vốn trên 221 triệu USD(2), đạt mức trung bình của các nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, thì đến tháng 12-2009, Trung Quốc đã có 657 dự án với tổng số vốn đăng ký là 2.673.941.942 USD(3), đưa Trung Quốc lên vị trí 11 trong số 43 nước và vùng lãnh thổ đang đầu tư trực tiếp tại Việt Nam.
Về tổng thể, quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Trung có những đặc điểm chủ yếu: 1- Quan hệ kinh tế giữa hai nước ngày càng gia tăng cùng với đà phát triển của quan hệ chính trị, ngược lại, sự phát triển của quan hệ kinh tế trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của quan hệ chính trị; 2- Quan hệ kinh tế giữa hai nước có tính chất bổ sung cho nhau của kinh tế địa dư; 3- Phạm vi hợp tác kinh tế giữa hai nước khá rộng rãi, phương thức hợp tác phong phú, đa dạng, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của hai nước và tuân theo các luật lệ buôn bán quốc tế; 4- Quan hệ kinh tế giữa hai nước phát triển theo đà của công cuộc đổi mới, cải cách, có sự thay đổi lớn cả về lượng và chất.
Về văn hóa - giáo dục, khoa học - công nghệ và du lịch, hằng năm, Việt Nam cử các đoàn đại biểu văn hóa sang thăm và làm việc tại Trung Quốc, tổ chức triển lãm mỹ thuật, nghiên cứu khảo sát các lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng, mỹ thuật, báo chí, văn học, nghệ thuật, điện ảnh, thể dục - thể thao... Trung Quốc tiếp nhận một số lượng đáng kể các học sinh, thực tập sinh Việt Nam sang nghiên cứu, học tập. Hợp tác khoa học - công nghệ giữa hai nước không ngừng phát triển thông qua hình thức trao đổi các đoàn chuyên gia, các nhà khoa học; cung cấp thông tin khoa học - công nghệ và tiến hành các dự án nghiên cứu chung về ứng dụng khoa học - công nghệ...
Hợp tác về du lịch giữa Việt Nam và Trung Quốc những năm qua phát triển khá nhanh. Trung Quốc liên tục là nước đứng đầu về số lượt khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là một trong những thị trường du lịch nguồn, trọng điểm.
Nhìn chung, hợp tác văn hóa - giáo dục, khoa học - công nghệ và du lịch Việt – Trung có những đặc điểm cơ bản: 1- Quan hệ văn hóa - giáo dục nhanh chóng khởi sắc trên cơ sở hai nước có nhiều nét tương đồng về văn hóa, có sự giao lưu văn hóa qua nhiều thế kỷ; 2- Hai nước tăng cường hợp tác, trao đổi trong lĩnh vực lý luận về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; 3- Hợp tác văn hóa - giáo dục, khoa học - công nghệ được thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng hiệu quả, tính hỗ trợ, bổ sung cho nhau, hậu thuẫn, củng cố cơ sở cho quan hệ chính trị, kinh tế phát triển.
2. Bên cạnh những bước tiến quan trọng về mọi mặt của quan hệ Việt - Trung, vẫn tồn tại không ít hạn chế, thách thức.
Trong quan hệ kinh tế - thương mại, cán cân thương mại giữa hai nước còn mất cân đối, tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam ngày càng tăng. Trong hoạt động xuất khẩu, xu hướng xuất khẩu nguyên liệu thô từ Việt Nam sang Trung Quốc ngày càng tăng, tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến của Việt Nam sang Trung Quốc chưa được cải thiện theo hướng tích cực. Khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam so với hàng hóa Trung Quốc còn rất khiêm tốn.
Về đầu tư, hầu hết các dự án đều có quy mô nhỏ, vốn ít và tập trung vào các lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên và công nghiệp chế biến với công nghệ trung bình. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong so sánh với một số nước khác của khu vực Đông Nam Á còn khá khiêm tốn.
Đầu tư của Việt Nam sang Trung Quốc những năm gần đây tuy có bước tiến mới, nhưng do năng lực hạn chế, nhưng quy mô vẫn nhỏ bé, tập trung ở một vài tỉnh biên giới. Hoạt động đầu tư giữa hai nước chủ yếu là đầu tư một chiều của Trung Quốc vào Việt Nam.
Việc tổ chức biên mậu giữa hai nước vẫn còn nhiều bất cập. Hoạt động buôn lậu hàng hóa qua biên giới (cả trên biên giới đất liền và trong vịnh Bắc Bộ) diễn ra theo hai chiều, phức tạp. Tỷ lệ trao đổi mậu dịch chính ngạch giữa hai nước cũng là vấn đề cần được quan tâm tháo gỡ, khi thương mại tiểu ngạch giữa hai nước khá phát triển, tác động mạnh đến thương mại chính ngạch, đặc biệt là khi Trung Quốc đẩy mạnh và phát triển mậu dịch tiểu ngạch, đã dành cho mậu dịch tiểu ngạch nhiều ưu tiên, ưu đãi, nên khả năng Việt Nam nâng xuất nhập khẩu chính ngạch lên cao hơn con số 70% còn gặp nhiều khó khăn.
Sau khi bình thường hóa quan hệ, với sự cố gắng của cả hai phía, về cơ bản, hai nước đã giải quyết được hai trong ba vấn đề biên giới, lãnh thổ, tuy nhiên, hiện nay giữa hai nước vẫn còn những bất đồng, về chủ quyền biển đảo. Tranh chấp chủ quyền biển, đảo không chỉ liên quan tới hai nước Việt Nam, Trung Quốc, mà còn liên quan tới các nước và vùng lãnh thổ khác trong khu vực. Do vậy, đây là vấn đề khá phức tạp, nhạy cảm, là một chuỗi những mối quan hệ chồng chéo, bao gồm những vấn đề lịch sử để lại, lợi ích chiến lược, vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế… mà không phải một sớm, một chiều giải quyết ngay được, nhưng vì lợi ích của mỗi nước, vì ổn định và hợp tác trong khu vực, cần nỗ lực tìm ra phương hướng giải quyết từ các bên có liên quan.
3. Chặng đường củng cố, xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phản ánh một quy luật trong quan hệ giữa hai nước nói riêng và giữa các quốc gia nói chung: Tính hai mặt “hợp tác” và “đấu tranh” luôn tồn tại tất yếu trong quan hệ quốc tế. Là hai nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sông", Việt Nam và Trung Quốc cùng chung rất nhiều lợi ích, song cũng do vị trí địa lý kề cận mà giữa hai nước không thể tránh khỏi những va chạm về kinh tế, chủ quyền, đất đai, sông biển... Do vậy, hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ với Trung Quốc là điều tất yếu và cần nhìn nhận vấn đề này một cách hết sức biện chứng: Những bất đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, xét về tổng thể, giữa hai nước lợi ích chung vẫn lớn hơn bất đồng.
Trong quan hệ kinh tế, phạm vi hợp tác giữa hai nước là hết sức rộng lớn. Hơn nữa, xu thế phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới, cũng như tính bổ trợ cho nhau trong kinh tế địa dư đòi hỏi phải coi phát triển quan hệ kinh tế với Trung Quốc là một yêu cầu cần thiết. Do vậy, cần tiếp tục ưu tiên phát triển kinh tế - thương mại với Trung Quốc thông qua việc khắc phục thách thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với Trung Quốc theo hướng bình đẳng, đôi bên cùng có lợi.
Đối với các khúc mắc, tranh chấp về chủ quyền biển đảo, nguyên tắc, phương châm giải quyết là: khai thác những điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, tích cực đối thoại, thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng, hợp lý và trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trên tinh thần "dễ trước, khó sau", Trung Quốc và Việt Nam cần tích cực tìm kiếm khả năng cùng triển khai hợp tác thích hợp; không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình hoặc mở rộng tranh chấp; không sử dụng vũ lực, hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Hai bên cần kịp thời bàn bạc, giải quyết thỏa đáng những bất đồng nảy sinh với thái độ bình tĩnh, xây dựng, để tìm ra giải pháp mà cơ bản hai bên có thể chấp nhận được. Ngoài những biện pháp mang tính tình thế, hai bên cần có kế hoạch, đề ra và thực hiện những biện pháp mang tính lâu dài, căn bản để giải quyết tốt vấn đề này. Phương thức tối ưu để hạn chế bất đồng, giải quyết vướng mắc là hai nước cần tiếp tục tăng cường hợp tác thực chất, bằng nhiều hình thức và điều chủ yếu là gắn bó bằng sợi dây lợi ích chính trị, kinh tế chung, ổn định cùng phát triển, lấy đó làm cơ sở duy trì lâu dài quan hệ hữu nghị, đi vào quỹ đạo phát triển ổn định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá đúng đắn về tầm vóc của Trung Quốc và trân trọng tình hữu nghị Việt - Trung. Bắc một nhịp cầu qua sự khác biệt, nối những điểm tương đồng, Người luôn tâm niệm và căn dặn: “Trung - Việt, khác nào môi với răng. Nhớ rằng môi hở thì răng buốt”(4). Chung sống hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển - đó là một yêu cầu, một nguyên tắc đối ngoại, mà giá trị của nó như nhau đối với mọi quốc gia có cùng chung biên giới, dù lớn, dù nhỏ.
-------------------------------------------------
(2) Đỗ Tiến Sâm - Furutamotoo (Chủ biên), Chính sách đối ngoại rộng mở của Việt Nam và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 140
Về thực hiện thí điểm bảo hiểm trong nông nghiệp  (14/11/2011)
Nữ trí thức với gia đình và sự nghiệp  (14/11/2011)
APEC họp phiên toàn thể, kêu gọi bền vững hơn  (14/11/2011)
Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong khối Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội  (14/11/2011)
Hội nghị cấp cao APEC thứ 19 ra tuyên bố chung  (14/11/2011)
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Nhận diện những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức chủ yếu của Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Hội nghị Trung ương 3 khóa XX Đảng Cộng sản Trung Quốc: Chú trọng duy trì ổn định và phát triển chất lượng cao
-
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX