Xu hướng phát triển năng lượng mới trên thế giới và vị trí, vai trò của ngành dầu khí Việt Nam

Phạm Tiến Đạt(*), Ngô Thanh Bình(**)
(*) PGS, TS, (**) ThS, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính
13:55, ngày 18-09-2019

TCCS - Thế giới đang phải đương đầu với thách thức khi cần nhiều năng lượng hơn cho tăng trưởng nền kinh tế, nhưng đồng thời phải cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Thách thức đó đòi hỏi thế giới phải tìm kiếm dạng năng lượng mới ưu việt hơn. Đây cũng là thách thức của ngành dầu khí Việt Nam. Tuy nhiên, cần khẳng định rõ vị trí của ngành dầu khí Việt Nam, đặc biệt trong khẳng định chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh năng lượng, tạo động lực cho các ngành kinh tế khác….

Ngành dầu khí Việt Nam là một trong những trụ cột chính bảo đảm nguồn cung năng lượng cho phát triển kinh tế ở Việt Nam_Nguồn: PVN

Xu hướng phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo trên thế giới

“Các nguồn năng lượng tái tạo sẽ là nguồn năng lượng chính của thế giới trong vòng hai thập niên tới và đang tạo dựng chỗ đứng trong hệ thống năng lượng toàn cầu nhanh hơn bất kỳ nhiên liệu nào trong lịch sử. Bristish Petroleum (BP), một trong những tập đoàn dầu khí đa quốc gia hàng đầu thế giới, ước tính vào năm 2040, năng lượng gió, năng lượng mặt trời và các năng lượng tái tạo khác sẽ chiếm khoảng 30% nguồn cung điện năng trên thế giới, đặc biệt ở khu vực các nước châu Âu, tỷ lệ này có thể lên tới 50%”. Ngoài ra, BP cũng đặt nhiều kỳ vọng vào tốc độ tăng trưởng của năng lượng tái tạo: “Trong khi dầu mất gần 45 năm để tăng từ mức 1% năng lượng toàn cầu lên 10% và khí đốt mất hơn 50 năm, thì năng lượng tái tạo dự kiến sẽ chỉ trong vòng 25 năm”. Năng lượng tái tạo dự kiến sẽ tăng trưởng 7,1% mỗi năm trong hai thập niên tới, sau đó thay thế than đá để trở thành nguồn năng lượng hàng đầu thế giới vào năm 2040.(1)

Gần đây, Cơ quan Năng lượng quốc tế đưa ra nhiều dự báo về xu hướng phát triển năng lượng tái tạo trong giai đoạn tới(2), cụ thể:

Năng lượng sinh học hiện đại (không bao gồm sử dụng sinh khối truyền thống) chiếm nửa mức năng lượng tái tạo tiêu thụ trong năm 2017. Hầu hết, năng lượng sinh học hiện đại được sử dụng vào mục đích cung cấp nhiệt cho các tòa nhà hay cho ngành công nghiệp.

Đến năm 2023, năng lượng sinh học vẫn là nguồn năng lượng tái tạo chiếm ưu thế, mặc dù đóng góp của nó trên tổng năng lượng tái tạo giảm từ 50% trong năm 2017 xuống còn 46% do có sự tăng lên của pin mặt trời và năng lượng gió trong ngành điện.

Tỷ lệ năng lượng tái tạo trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng toàn cầu dự kiến sẽ tăng 1/5 trong 5 năm tới để đạt 12,4% vào năm 2023. Năng lượng tái tạo hiện đại được sử dụng trong 3 lĩnh vực: sản xuất điện, tạo nhiệt, giao thông vận tải.

Năng lượng tái tạo sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong ngành điện, cung cấp gần 30% nhu cầu điện trong năm 2023 (từ mức 24% năm 2017). Trong giai đoạn này, năng lượng tái tạo được dự báo sẽ đáp ứng hơn 70% mức tăng trong sản xuất điện toàn cầu, dẫn đầu là năng lượng mặt trời và tiếp sau đó là năng lượng gió, thủy điện và năng lượng sinh học. Thủy điện vẫn là nguồn tái tạo lớn nhất, đáp ứng 16% nhu cầu điện toàn cầu vào năm 2023, tiếp theo là năng lượng gió (6%), năng lượng điện mặt trời (4%) và năng lượng sinh học (3%).

Mặc dù tăng trưởng chậm hơn ngành điện, song ngành nhiệt (bao gồm sưởi ấm cho các tòa nhà hoặc cho ngành công nghiệp) sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số các năng lượng tái tạo để đáp ứng nhu cầu năng lượng vào năm 2023. Mức tiêu thụ năng lượng tái tạo trong ngành nhiệt được dự kiến sẽ tăng 20%, nhưng cũng chỉ đáp ứng 12% nhu cầu của ngành nhiệt vào năm 2023 do nhu cầu về nhiệt sẽ tăng mạnh bởi sự phát triển kinh tế và gia tăng dân số.

Năng lượng tái tạo sử dụng ở lĩnh vực giao thông vận tải chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng nhu cầu năng lượng của ngành, vì các phương tiện, sản phẩm sử dụng xăng, dầu vẫn nhiều. Năng lượng tái tạo sử dụng trong giao thông vận tải chủ yếu từ nhiên liệu sinh học.

Tiềm năng và thực trạng khai thác các nguồn năng lượng tái tạo của Việt Nam

Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam luôn duy trì được mức độ phát triển ấn tượng, năm 2018 tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,08% (mức cao nhất trong 10 năm qua). Thời gian tới, với việc ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng thông qua ký kết các hiệp định thương mại tự do, sự tăng trưởng mạnh mẽ của nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dựa trên những thế mạnh nội tại và tác động từ các căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc, sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân và cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh khối doanh nghiệp nhà nước qua cổ phần hóa sẽ là những nhân tố tích cực để kinh tế Việt Nam bứt phá. Trong bối cảnh đó, nhu cầu về năng lượng để phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế được dự đoán sẽ tăng mạnh. Tại Việt Nam, một số nguồn năng lượng tái tạo được quan tâm và đưa vào khai thác như:

- Năng lượng mặt trời

Việt Nam được xem là một quốc gia có tiềm năng rất lớn về năng lượng mặt trời, đặc biệt ở các vùng thuộc khu vực miền Trung và miền Nam. Trung bình, tổng bức xạ năng lượng mặt trời ở Việt Nam dao động từ 4,3 - 5,7 triệu kWh/m2. Ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ, số giờ nắng khá cao, đạt khoảng 2.000 - 2.600giờ/năm, bức xạ mặt trời trung bình đạt 150 kcal/m2, khoảng 2.000 - 5.000giờ/năm, ước tính tiềm năng lý thuyết đạt khoảng 43,9 tỷ TOE(3). Với những thuận lợi như vậy, Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã đặt kế hoạch khai thác điện mặt trời tăng mạnh trong thời gian tới, năm 2020 đạt khoảng 850MW; năm 2025 đạt khoảng 4.000MW và có thể khai thác khoảng 12.000MW vào năm 2030. Hiện nay, năng lượng mặt trời được ứng dụng chủ yếu là điện mặt trời áp mái vì mang lại nhiều lợi ích. Đối với hộ gia đình, khi lắp đặt điện mặt trời áp mái vừa có thể làm giảm nhiệt trong phòng, vừa có thu tiền từ việc bán điện cho EVN…

Mặc dù có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ và khuyến khích sản xuất và tiêu dùng, tuy nhiên việc ứng dụng điện mặt trời áp mái hiện nay còn rất khiêm tốn, sau hai năm triển khai mới có 1.800 hộ dân tham gia với công suất lắp đặt 30 MW(4).

- Năng lượng gió

Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng, Việt Nam là nước có tiềm năng gió rất lớn, với hơn 39% tổng diện tích của Việt Nam được ước tính là có tốc độ gió trung bình hằng năm lớn hơn 6m/giây, ở độ cao 65m, tương đương với tổng công suất 512GW. Đặc biệt, hơn 8% diện tích Việt Nam được xếp hạng có tiềm năng gió rất tốt (tốc độ gió ở độ cao 65m là 7 - 8 m/giây), có thể tạo ra hơn 110GW. Với những ưu đãi về điều kiện tự nhiên như vậy, Việt Nam đặt ra lộ trình sẽ đạt 800MW điện gió vào năm 2020, chiếm khoảng 0,8% tổng nhu cầu điện và mục tiêu đạt 2.000MW vào năm 2025 và 6.000MW vào năm 2030.

Tuy nhiên thực tế hiện nay, điện gió chưa đạt được sự phát triển như kỳ vọng khi tổng công suất lắp đặt điện gió tại Việt Nam mới đạt khoảng 228MW (tính đến cuối năm 2018).

- Thủy điện nhỏ

Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc phân bổ trên khắp cả nước nên có tiềm năng lớn trong phát triển thủy điện nhỏ. Công nghệ thủy điện nhỏ đã được phát triển, hoàn thiện nên có mức độ khả thi về mặt kinh tế cao. Chính vì vậy, loại hình này khá phổ biến, đặc biệt ở các nước đang phát triển vì có vai trò hết sức quan trọng trong xóa đói, giảm nghèo và gia tăng chỉ số tiếp cận điện năng. Theo đánh giá, tiềm năng thủy điện nhỏ của Việt Nam vào khoảng 4.000MW, trong đó loại nguồn có công suất từ 100kW đến 30MW chiếm khoảng 93% - 95%, còn loại nguồn có công suất dưới 100kW chỉ chiếm khoảng 5% - 7% và có tổng công suất trên 200MW(5).

- Năng lượng sinh khối

Là một nước nông nghiệp, Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển năng lượng sinh khối. Các nguồn nhiên liệu chính của sinh khối, gồm: gỗ, phế thải từ phụ phẩm cây trồng, chất thải chăn nuôi, rác thải đô thị và các chất hữu cơ khác. Theo tính toán của Viện Năng lượng Việt Nam, tổng nguồn sinh khối vào khoảng 118 triệu tấn/năm, bao gồm khoảng 40 triệu tấn rơm rạ, 8 triệu tấn trấu, 6 triệu tấn bã mía và trên 50 triệu tấn vỏ cà-phê, vỏ đậu, phế thải gỗ... Trong đó, tiềm năng sinh khối gỗ cho sản xuất năng lượng lên đến gần 25 triệu tấn, tương đương với 8,8 triệu tấn dầu thô. Riêng tiềm năng năng lượng sinh khối phụ phẩm nông nghiệp của nước ta gồm rơm rạ, trấu, bã mía và các loại nông sản khác lên đến gần 53,5 triệu tấn, tương đương với 12,8 triệu tấn dầu thô. Ðặc biệt, nguồn năng lượng này sẽ liên tục được tái sinh và tăng trưởng đều đặn trong vòng 30 năm. Tuy nhiên, Chính phủ chỉ đặt mục tiêu khá nhỏ với phát triển điện sinh khối, cụ thể đến năm 2020, tỷ trọng điện năng sản xuất từ điện sinh khối khoảng 1%, năm 2025 là 1,2% và năm 2030 là 2,1%(6).

Ngoài các nguồn nhiên liệu phổ biến kể trên, Việt Nam còn có nhiều tiềm năng trong phát triển năng lượng địa nhiệt và năng lượng biển như thủy triều. Tuy nhiên các nguồn năng lượng này vẫn còn đang trong quá trình nghiên cứu tính thương mại trước khi được đưa vào áp dụng.

Vị trí, vai trò của ngành dầu khí Việt Nam trong xu hướng phát triển năng lượng tái tạo của thế giới

Nhu cầu về năng lượng sẽ ngày một tăng cao để đáp ứng yêu cầu cho phát triển kinh tế, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do đó đáp ứng nhu cầu năng lượng trong giai đoạn tới sẽ tiếp tục là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế để đạt được mục tiêu đề ra và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đặc biệt khi nước ta đặt mục tiêu giảm điện than từ 53% xuống còn 40%. Thêm vào đó, với thực trạng trang thiết bị lạc hậu, cơ cấu kinh tế thâm dụng nguyên vật liệu, ý thức tiết kiệm chưa cao, cơ cấu năng lượng phụ thuộc nhiều vào dầu khí và than đá, nên mặc dù Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo, nhưng chưa đủ tiềm lực, năng lực để tận dụng tốt các tiềm năng này, mà vẫn phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch trong thời gian tới. Vì vậy, ngành dầu khí vẫn đóng vai trò quan trọng, cụ thể:

Thứ nhất, ngành dầu khí Việt Nam tiếp tục là một trong những trụ cột chính bảo đảm nguồn cung năng lượng cho phát triển kinh tế ở Việt Nam. Theo báo cáo triển vọng năng lượng 2019, cùng với sự phát triển nền kinh tế thế giới nhu cầu về năng lượng toàn cầu sẽ tăng mạnh khoảng 1/3 vào năm 2040. Trong đó, nhiên liệu hóa thạch vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu năng lượng thế giới. Theo đánh giá của BP năm 2018, trong tổng năng lượng sơ cấp mà Việt Nam sử dụng, năng lượng từ dầu khí hiện chiếm tỷ lệ rất cao, tới 40%. Như vậy, có thể thấy, vai trò của ngành dầu khí hiện nay trong an ninh năng lượng quốc gia và dư địa cho dầu khí phát triển còn rất lớn trong cả lĩnh vực cung cấp năng lượng và hỗ trợ các ngành khác phát triển.

Thứ hai, cung cấp nguồn nhiên liệu cho phát triển nhiệt điện khí nhằm bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh định hướng phát triển kinh tế theo hướng nhanh và bền vững, một trong những quan tâm hàng đầu khi khai thác, sử dụng nguồn nhiên liệu hóa thạch đó là bảo vệ môi trường. Phát triển nhiệt điện khí trở thành cách thức giảm thiểu tác hại với môi trường. Tuy nhiên, hiện nay, giá thành cho sản xuất điện theo hình thức này còn cao do Việt Nam chưa chủ động trong nguồn nhiên liệu. Ngành dầu khí với việc triển khai các dự án khí góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt nhiên liệu khí này. Hiện có 2 siêu dự án khí: Cá Voi Xanh và Lô B - Ô Môn, đang trong giai đoạn phát triển. Vào năm 2023, khi các dự án này hoàn thành và đi vào hoạt động, nguồn cung sẽ được bổ sung hàng chục tỷ mét khối mỗi năm, bảo đảm nhiên liệu cho khoảng 6 - 7 nhà máy nhiệt điện khí với công suất khoảng 6.000 - 7.000MW(7).

Thứ ba, đóng góp trong việc xây dựng các dự án điện gió ngoài khơi. Để bảo đảm an ninh năng lượng, việc duy trì vai trò của các nguồn nguyên liệu hóa thạch trong cung cấp năng lượng là cần thiết, tuy nhiên về lâu dài, phát triển năng lượng tái tạo mới là hướng đi bền vững cho ngành năng lượng Việt Nam. Hiện nay, năng lượng gió ngoài khơi đang là một xu thế mới có nhiều triển vọng. Trong đó, dự án điện gió ngoài khơi Kê Gà do Enterprise Energy UK đề xuất có thể là đột phá mới cho năng lượng Việt Nam. Nếu thành công, dự án này sẽ mở ra một nguồn năng lượng xanh có công suất tới hàng chục ngàn MW; sẽ hình thành một ngành kinh tế - kỹ thuật mới có giá trị đến 100 tỷ USD. Trong đó, ngành dầu khí với những lợi thế về kinh nghiệm xây dựng, lắp đặt các công trình trên biển sẽ có khả năng đóng góp rất lớn trong triển khai các dự án về điện gió ngoài khơi có triển vọng đi vào hiện thực, góp phần giúp đa dạng hóa nguồn năng lượng tái tạo và củng cố thêm cho an ninh năng lượng quốc gia trong tương lai.

Thứ tư, ngành dầu khí mở rộng hợp tác quốc tế, mở rộng đầu tư khai thác bên ngoài, đưa Việt Nam vào danh sách các nhà xuất khẩu dầu khí trên thế giới. Bên cạnh đó, ngành dầu khí phát triển góp phần bảo đảm môi trường tăng trưởng và giải quyết việc làm, an sinh xã hội. Việc khai thác dầu khí trên biển góp phần khẳng định chủ quyền lãnh hải Việt Nam phát triển kinh tế biển theo Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030 tầm nhìn đến 2045. Các nguồn lực đem lại từ phát triển ngành dầu khí góp phần cân đối vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng chung của cả nền kinh tế./.

------------------------------------------

(1) Báo cáo Triển vọng năng lượng 2019, Bristish Petroleum, địa chỉ: https://www.bp.com/content/dam/bp/business-sites/en/global/corporate/pdfs/energy-economics/energy-outlook/bp-energy-outlook-2019.pdf, truy cập 10-7-2019
(2) Báo cáo Năng lượng tái tạo 2018, Cơ quan Năng lượng quốc tế, địa chỉ: https://www.iea.org/renewables2018/, truy cập 5-7-2019
(3) http://tapchimoitruong.vn/pages/article.aspx?item=Ti%E1%BB%81m-n%C4%83ng-ph%C3%A1t-tri%E1%BB%83n-n%C4%83ng-l%C6%B0%E1%BB%A3ng-s%E1%BA%A1ch-c%E1%BB%A7a-Vi%E1%BB%87t-Nam-47343
(4) https://www.moit.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/viet-nam-con-nhieu-tiem-nang-%C4%91e-phat-trien-%C4%91ien-mat-troi-ap-mai-14090-16.html
(5) http://nangluongvietnam.vn/news/vn/dien-luc-viet-nam/phat-trien-thuy-dien-o-viet-nam-tiem-nang-va-thach-thuc.html
(6) http://cis.org.vn/article/3914/tinh-hinh-phat-trien-nang-luong-quoc-gia-va-nang-luong-tai-tao-viet-nam-phan-3.html
(7) http://nangluongvietnam.vn/news/vn/nhan-dinh-phan-bien-kien-nghi/dau-khi-trong-tuong-lai-nang-luong-viet-nam.html