Bộ đội Biên phòng quán triệt quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia

TS Nguyễn Quang Thuyên
Đại tá, Hiệu trưởng Trường Trung cấp 24 Biên phòng, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng
22:47, ngày 15-03-2024

TCCS - Những năm gần đây, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Quá trình toàn cầu hóa cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục diễn ra nhanh chóng, mang đến cho các quốc gia cả cơ hội và thách thức. Hội nhập quốc tế, hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Trong bối cảnh đó, giữa đối tượng và đối tác luôn đan xen, chuyển hóa lẫn nhau. Do đó, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” là xu thế tất yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay được Đảng ta xác định rõ trong các văn kiện, nghị quyết về công tác quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, trong đó có công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

Bộ đội Biên phòng tuần tra biên giới (ảnh: Nguyễn Hữu Lanh)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Tư duy chiến lược bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta trong tình hình mới

Kế thừa bài học kinh nghiệm truyền thống đánh giặc giữ nước của ông cha và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc, toàn diện hơn về mục tiêu, nhiệm vụ, phương châm và phương thức bảo vệ Tổ quốc. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, văn bản quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; trọng tâm là Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 15-10-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đây là nghị quyết có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện tư duy mới, bước đột phá về sự lãnh đạo của Đảng ta đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh thế giới mới, có nhiều biến đổi phức tạp, khó lường. Nghị quyết xác định quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”(1). Tiếp đến là Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 28-9-2018, của Bộ Chính trị, “Về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia” khẳng định quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia là một bộ phận trọng yếu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Nghị quyết cũng chỉ rõ, trong tình hình mới, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng - lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia rất toàn diện và phức tạp, bao gồm: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ biên giới quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa;… bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa, pháp luật, tính uy nghiêm và biểu tượng quốc gia tại biên giới, cửa khẩu, giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp, thông lệ quốc tế; “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”; sẵn sàng kết hợp các biện pháp, hình thức khác làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động xâm phạm, xâm chiếm biên giới quốc gia(2). Đến Đại hội XIII của Đảng, trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực dự báo tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhiều cơ hội, thách thức đan xen, Đảng ta xác định: “Kiên trì, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; nâng cao khả năng thích ứng năng động và linh hoạt xử lý hài hòa lợi ích quốc gia với quan tâm chung, phù hợp với luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử tại khu vực, trên tinh thần lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết”(3). Có thể thấy, quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” là cơ sở lý luận và phương châm hành động cho mọi cấp, ngành, lực lượng trong xây dựng vả bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trên cơ sở đó, các cấp, ngành nói chung, lực lượng Bộ đội Biên phòng nói riêng đã quán triệt, vận dụng vào hoạt động thực tiễn theo chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực được phân công, trong đó, có lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

“Vừa hợp tác, vừa đấu tranh” là hai mặt của một vấn đề, có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hợp tác để tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, điều kiện, hoàn cảnh thuận lợi, sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế nhằm xây dựng và phát triển đất nước; qua đó, tạo tiềm lực, sức mạnh, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Ngược lại, đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định nhằm tạo tiền đề, cơ sở vững chắc cho hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Bởi chỉ trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và sự ổn định, vững mạnh của Nhà nước thì mới hoàn toàn độc lập, tự chủ trong việc hợp tác. Trong quá trình vận dụng, cần hết sức linh hoạt, nhạy bén, tránh tư tưởng tuyệt đối hóa mặt này, xem nhẹ mặt kia và ngược lại. Nếu tuyệt đối hóa hoặc chỉ chú trọng mặt hợp tác, xem nhẹ mặt đấu tranh sẽ gây tổn hại cho lợi ích của dân tộc; ngược lại, nếu quá coi trọng mặt đấu tranh, coi nhẹ mặt hợp tác, lại gây ảnh hưởng, thậm chí cản trở quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đi ngược lại xu thế của thời đại. Đòi hỏi hợp tác nhưng vẫn luôn đề cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi âm mưu, hành động xâm hại chủ quyền, lợi ích của đất nước; giữ vững mục tiêu và sự ổn định của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước ta. Đồng thời, đấu tranh phải khôn khéo, giữ vững mục tiêu, nguyên tắc, chiến lược nhưng phải mềm dẻo, linh hoạt về sách lược; vừa bảo đảm được lợi ích quốc gia vừa giữ được môi trường hòa  bình, ổn định, không gây căng thẳng, đối đầu trong quan hệ quốc tế.

Thực tiễn cho thấy, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay, tất yếu đòi hỏi cần có sự hợp tác. Nhưng chính quá trình hợp tác đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bất đồng, khác biệt, thậm chí xung đột về lợi ích. Đặc biệt, trong bối cảnh các nước lớn luôn tận dụng tiềm lực, ưu thế về kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ… nhằm đẩy mạnh can thiệp, chi phối các quốc gia khác. Vì vậy, trong hợp tác đòi hỏi phải gắn liền với đấu tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Tại Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, trong giai đoạn phát triển mới hiện nay và sắp tới, tình hình thế giới và khu vực dự báo sẽ còn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn sẽ ngày càng quyết liệt, thậm chí có nguy cơ xung đột, đối đầu, tạo thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước có độ mở của nền kinh tế cao, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế như nước ta. Ở trong nước, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt sẽ còn diễn biến phức tạp và gay gắt hơn. Bối cảnh tình hình mới đòi hỏi chúng ta phải ban hành và tổ chức thực hiện thật tốt nghị quyết mới của Trung ương về nhiệm vụ chiến lược đặc biệt quan trọng này. Luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Chú trọng bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên quyết, kiên trì, chủ động tạo lập thời cơ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc(4).

Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia; đồng thời, là “lực lượng chiến đấu đầu tiên, bám trụ đến cùng để bảo vệ và giữ vững biên giới quốc gia”(5). Do đó, trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, phải quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc các quan điểm chỉ đạo của Đảng, trong đó có quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Đáng chú ý, địa bàn hoạt động của Bộ đội Biên phòng là khu vực biên giới, được xác định là “cửa ngõ”, “phên giậu” của quốc gia; luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra tranh chấp, xâm lấn về chủ quyền lãnh thổ; đặc biệt là các nguy cơ xung đột biên giới, gây chiến tranh xâm lược của các thế lực bên ngoài. Thực tiễn cho thấy, các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia thường xảy ra trước hết ở khu vực biên giới. Mặt khác, trong quá trình quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia liên quan trực tiếp đến mối quan hệ với các nước có chung đường biên giới, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề xảy ra trên biên giới.

Vì vậy, trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, các đơn vị Bộ đội Biên phòng phải quán triệt, nắm vững và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Về hợp tác, cần tập trung vào các vấn đề hợp tác với lực lượng bảo vệ biên giới các nước láng giềng để cùng quản lý, bảo vệ đường biên giới chung, hệ thống mốc quốc giới, đấu tranh phòng, chống tội phạm giữa hai bên biên giới. Hợp tác để ngăn chặn các đối tượng xâm phạm chủ quyền, an ninh hoặc các nguy cơ đe doạ đến chủ quyền, an ninh quốc gia của nước ta từ sớm, từ xa, từ ngoài biên giới. Hợp tác trong xây dựng, củng cố tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai bên biên giới; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định về an ninh, trật tự ở khu vực biên giới. Hợp tác để giải quyết các vụ, việc xảy ra trên biên giới theo phạm vi nhiệm vụ, thẩm quyền được pháp luật quy định. Mọi bất đồng đều phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế và lợi ích của mỗi bên. Hợp tác trong tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn và các hoạt động khác có liên quan đến hai bên biên giới. Về đấu tranh, cần tập trung vào các mặt: 1- Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm, tư tưởng sai trái về vấn đề chủ quyền lãnh thổ và giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh thổ giữa hai nước. 2- Đấu tranh với các đối tượng có âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoạt tình đoàn kết hữu nghị giữa hai Đảng, Nhà nước, lực lượng bảo vệ biên giới và nhân dân hai bên biên giới. 3- Đấu tranh chống mọi âm mưu, hành động của các cá nhân, tổ chức xâm phạm hoặc đe doạ xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, lợi ích của nước ta trên biên giới.

Bộ đội Biên phòng Việt Nam và lực lượng bảo vệ biên giới Campuchia tuần tra tại cột mốc biên giới (ảnh: Nguyễn Hoàng Nam)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

“Vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia hiện nay

Từ thực tiễn cho thấy, để thực hiện quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, các đơn vị Bộ đội Biên phòng cần tập trung thực hiện tốt các vấn đề sau:

Thứ nhất, phát huy vai trò của cấp ủy, chỉ huy các đơn vị trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.

Mọi hoạt động hợp tác, đấu tranh trong quá trình quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, nhất là trong giải quyết các vấn đề về biên giới đều là những vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp đến toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, vị thế, uy tín và lợi ích của Nhà nước ta, đòi hỏi phải tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng, nhất là đường lối, chính sách đối ngoại. Do đó, để thực hiện tốt quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị phải đề cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đối với mọi hoạt động của đơn vị. Thể hiện từ khâu xây dựng, ban hành các chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo cũng như việc chỉ đạo xử lý, giải quyết các tình huống, vụ việc cụ thể. Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị phải đề ra các chủ trương, biện pháp trong từng nội dung hợp tác, đấu tranh; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện của các cá nhân, đơn vị thuộc quyền, bảo đảm cho mọi hoạt động hợp tác và đấu tranh phải đúng quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; đúng nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng và luật pháp, thông lệ quốc tế. Đặc biệt, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; bất cứ hoạt động nào của quá trình hợp tác, đấu tranh mà có thể gây ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại hoặc gây thiệt hại cho lợi ích chung thì phải cân nhắc kỹ lưỡng. Hợp tác những vấn đề gì, hợp tác đến đâu, như thế nào; đấu tranh với đối tượng nào, nội dung, hình thức, biện pháp ra sao, quy mô đến đâu… đều có sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo trực tiếp của người chỉ huy có thẩm quyền; tuyệt đối không để sơ hở, sai lầm, gây hậu quả xấu.

Thứ hai, tổ chức nắm chắc tình hình địa bàn ngoại biên đối diện.

Tình hình địa bàn ngoại biên đối diện có tác động trực tiếp đến công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia của Bộ đội Biên phòng. Do đó, để thực hiện tốt quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, các đơn vị Bộ độ Biên phòng cần tập trung nắm chắc các yếu tố tình hình địa bàn ngoại biên đối diện, như: Quan điểm, chủ trương của nước láng giềng trong giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh thổ và trong quan hệ với Việt Nam. Các chủ trương, chính sách, hoạt động của chính quyền sở tại và các cơ quan, tổ chức ở ngoại biên có tác động đến chủ quyền, lợi ích của nước ta. Tổ chức biên chế các đơn vị lực lượng vũ trang ở giáp biên giới; quan điểm, thái độ của người chỉ huy trong quan hệ với Bộ đội Biên phòng Việt Nam; các động thái về quân sự, an ninh và hoạt động của các lực lượng vũ trang có tác động đến biên giới nước ta. Hoạt động của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các tổ chức phản động lưu vong, các đảng phái chính trị đối lập, các tổ chức quốc tế và của các nước thứ ba ở địa bàn ngoại biên. Trên cơ sở đó, tranh thủ, phát huy những nhân tố tương đồng, tích cực, phù hợp với lợi ích chung để hợp tác; phát hiện những hoạt động xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia và lợi ích của nước ta để đấu tranh hoặc hạn chế những bất đồng, khác biệt, xung đột về lợi ích; không để bị động, bất ngờ trước mọi diễn biến của tình hình. Công tác nắm tình hình phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và kịp thời.

Để nắm được tình hình địa bàn ngoại biên, cần tiến hành đồng bộ, vận dụng linh hoạt các biện pháp, như: Các công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng trinh sát biên phòng và phòng, chống ma túy và tội phạm; đặc biệt là công tác điều tra, nghiên cứu địa bàn, mục tiêu, đối tượng tình báo và công tác sưu tập địa bàn, mục tiêu ở ngoại biên. Mặt khác, Bộ đội Biên phòng các cấp cần tăng cường phối hợp trao đổi thông tin với các lực lượng chức năng ở hai bên biên giới. Ngoài ra, thông qua các mối quan hệ, giao lưu của chính quyền, các công ty, doanh nghiệp và cư dân hai bên biên giới để nắm bắt thông tin.

Thứ ba, thường xuyên quán triệt, giáo dục nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.

Cán bộ các đơn vị Bộ đội Biên phòng là lực lượng trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia. Do đó, để thực hiện tốt quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy các đơn vị Bộ đội Biên phòng phải thường xuyên quán triệt, giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ thuộc quyền. Về nội dung, cần quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ nắm rõ quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, nhất là với các nước có chung đường biên giới với nước ta; hiểu rõ quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng; trực tiếp là quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, chủ động phòng ngừa, chuẩn bị phương án sẵn sàng đối phó với các tình huống đột biến. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các hoạt động xâm phạm đường biên giới; không để bị khiêu khích, dẫn đến xảy ra các vụ việc phức tạp trên biên giới”(6). Quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ nắm rõ các điều ước quốc tế về biên giới, trực tiếp là các văn bản ký kết giữa chính quyền và các ban, ngành, lực lượng giữa hai bên biên giới; các quy định của pháp luật về quản lý biên giới quốc gia và trình tự, thủ tục giải quyết các vấn đề xảy ra trên biên giới. Quán triệt các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng trong quản lý, bảo vệ biên giới và hợp tác với lực lượng bảo vệ biên giới nước láng giềng... Về hình thức, cần vận dụng đa dạng các hình thức, như: Quán triệt, phổ biến trong các buổi sinh hoạt tại đơn vị; tổ chức học tập theo các chuyên đề; liên hệ với các ban, ngành của địa phương để gửi cán bộ tham gia các lớp tập huấn do địa phương tổ chức; cấp phát tài liệu, văn bản để cán bộ tự nghiên cứu; định kỳ tổ chức các hội nghị sơ, tổng kết, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai sót trong quá trỉnh tổ chức thực hiện…

Thứ tư, coi trọng bồi dưỡng các kỹ năng trong việc thực hiện “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.

Trong thực hiện “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, đòi hỏi các cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng phải có những kỹ năng cần thiết, như: Giao tiếp, đối thoại, đàm phán, thương lượng, thuyết phục. Nắm chắc và vận dụng thành thạo kỹ năng này, vừa để tạo sự đồng thuận, hiểu biết lẫn nhau, vừa từng bước kiến tạo những điểm tương đồng, hóa giải những điểm bất đồng trong hợp tác, giải quyết các vấn đề xảy ra trên biên giới. Trên cơ sở đó, giúp cho việc xây dựng, củng cố được lòng tin, thái độ hợp tác tin cậy, bình đẳng, “cùng thắng” với đối tác trong quan hệ hợp tác, đấu tranh. Để thực hiện được điều này, chỉ huy các đơn vị Bộ đội Biên phòng cần bồi dưỡng cho cán bộ thuộc quyền nắm chắc và biết vận dụng thành thạo các kỹ năng trong tiếp xúc, đối thoại, đàm phán, thương lượng, thuyết phục. Trong đó, tập trung vào các vấn đề, như: Trình tự các bước trong buổi gặp gỡ, hội đàm với các cơ quan, đơn vị nước láng giềng; nguyên tắc, nội dung, hình thức đối ngoại quân sự, đối ngoại biên phòng, nghi thức ngoại giao. Cách sử dụng, khai thác kỹ năng đàm phán, như: Biết người biết ta; biết kiểm soát biểu cảm, cảm xúc; tạo ấn tượng tốt ngay từ đầu; luôn chủ động trong việc dẫn dắt, điều khiển câu chuyện.

Trong tiếp xúc, luôn có thái độ vui vẻ, lịch sự, nghiêm túc; tự tin, tạo sự thân thiện, cởi mở; cách đặt vấn đề cụ thể, ngắn gọn, đúng trọng tâm; câu hỏi đưa ra phải có chiều sâu, lập luận sắc sảo; thẳng thắn, chân thành, có lý, có tình; chú ý quan sát, lắng nghe, nắm bắt nhanh thông tin do đối tác đưa ra. Cần tránh thái độ hoặc ngôn từ dễ gây căng thẳng, xung đột. Nếu đối tác nêu ra những vấn đề gay cấn cần bình tĩnh, chủ động tìm cách lái sang những chuyện khác, tránh “dục tốc bất đạt”. Tuyệt đối tránh những vấn đề nhạy cảm về chính trị, tranh luận dài dòng hoặc đôi co. Đặc biệt, phải có thái độ ứng xử linh hoạt, phù hợp với từng đối tác và trong từng trường hợp, hoàn cảnh cụ thể.

Thứ năm, tích cực tham gia xây dựng, củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa hai bên biên giới.

Với chức năng là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, các đơn vị Bộ đội Biên phòng cần tích cực tham gia xây dựng, củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa hai bên biên giới. Đó là quan hệ giữa chính quyền, lực lượng bảo vệ biên giới và nhân dân hai bên biên giới. Xây dựng, củng cố được quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa hai bên biên giới, tạo lòng tin để hợp tác tốt, hạn chế các bất đồng. Khi xảy ra các vụ, việc liên quan đến chủ quyền, biên giới mới dễ đồng thuận trong việc thương lượng, hòa giải và ủng hộ lẫn nhau. Trước hết, trên cơ sở các điều ước và các thỏa thuận quốc tế về biên giới, các đơn vị duy trì nghiêm túc chế độ hội đàm biên giới và các kênh liên lạc khác giữa lực lượng chức năng hai bên biên giới. Tăng cường các hoạt động giao lưu, kết nghĩa với lực lượng bảo vệ biên giới nước láng giềng. Thường xuyên tổ chức các hoạt động thăm hỏi, chúc mừng nhân các ngày lễ hoặc các sự kiện chính trị quan trọng của nước láng giềng. Duy trì có nền nếp các hoạt động hợp tác quản lý, bảo vệ biên giới, như: Tuần tra chung, diễn tập chung, huấn luyện chung hoặc trao đổi cán bộ để thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho cư dân khu vực biên giới hai nước. Mặt khác, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các địa phương thực hiện tốt đối ngoại nhân dân; duy trì các hoạt động giao lưu, kết nghĩa, thăm hỏi của các tổ chức quần chúng với các tổ chức tương ứng của nước láng giềng; kể cả việc hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất cho nhân dân bên kia biên giới khi gặp thiên tai, hoạn nạn.

Văn kiện Đại hội XIII Đảng ta nhấn mạnh: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”(7). Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII cũng nhấn mạnh: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên quyết, kiên trì, chủ động tạo lập thời cơ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường đầu tư thích đáng cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; chủ động, tích cực hội nhập, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế”(8). Điều này một lần nữa khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam là luôn kiên định, giữ vững nguyên tắc chiến lược, không nhân nhượng, thỏa hiệp về độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc trong bất cứ điều kiện nào, hoàn cảnh nào, với bất cứ đối tượng nào. Tuy nhiên, sách lược luôn linh hoạt, mềm dẻo, kiên trì giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở bảo đảm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; có đối sách thích ứng với từng đối tượng, từng tình huống cụ thể trên tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Đây là tư duy biện chứng, linh hoạt, sáng tạo và để thực hiện phương châm đó, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với đấu tranh quốc phòng, an ninh ngay trong thời bình để ngăn chặn từ sớm, đẩy lùi từ xa những nhân tố có thể dẫn đến đột biến, bất lợi mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng, tạo cớ gây xung đột, chiến tranh. Cần coi trọng phương thức đấu tranh phi vũ trang và phát triển, hoàn thiện quan điểm “tự bảo vệ” trong điều kiện mới, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, lấy xây dựng để bảo vệ, bảo vệ để xây dựng, xây dựng đến đâu phải tự bảo vệ và được bảo vệ vững chắc đến đó. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị Bộ đội Biên phòng các cấp cần thường xuyên quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ nắm chắc nội dung quan điểm; biết vận dụng linh hoạt trong hoạt động thực tiễn, góp phần quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia và xây dựng, củng cố tình đoàn kết hữu nghị với các nước láng giềng, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa./.

-----------------------------

(1) Xem Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 15-10-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”
(2), (5) Xem Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28-9-2018 của Bộ Chính trị “Về chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr 282
(4), (8) Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII:”Nâng cao chất lượng chính sách xã hội; xây dựng đội ngũ trí thức nước nhà xứng tầm là nguyên khí quốc gia; thực hiện tốt chiến lược bảo vệ Tổ quốc, phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc"   Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 8-10-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/trung-uong-thong-nhat-ban-hanh-cac-nghi-quyet-va-quyet-nghi-mot-so-noi-dung-quan-trong-khac-gop-phan-tao-ra-khi-the-moi-xung-luc-moi-cho-su-nghiep-doi
(6) Xem Quyết định số 10/QĐ-TTg, ngày 11-2-2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường hợp tác, phối hợp quản lý biên giới giữa Việt Nam với các nước láng giềng”
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 156 - 157