TCCS - Hệ thống ngân hàng cùng với các hoạt động ngân hàng đóng vai trò quan trọng là “huyết mạch” của nền kinh tế đất nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do là nơi tập hợp số lượng lớn tài sản, nguồn vốn, nên ngân hàng cũng là mục tiêu hướng đến của các đối tượng tội phạm, lợi dụng thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật nhằm chiếm đoạt tài sản. Để hoạt động ngân hàng an toàn, ổn định, việc nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng có vai trò quan trọng.

Triển khai áp dụng sớm các biện pháp bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng điện tử với công nghệ bảo mật tiên tiến là một giải pháp quan trọng phòng, chống tội phạm ngân hàng (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan trưng bày công nghệ chuyển đổi số của một số ngân hàng, tại Hội nghị chuyển đổi số ngành ngân hàng)_Ảnh: TTXVN

Trước yêu cầu công tác công an, an ninh ngày càng cao và những diễn biến phức tạp của các loại tội phạm, Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Tích cực đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, nhất là đấu tranh với tội phạm kinh tế, tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại, tội phạm sử dụng công nghệ cao…”(1). Ngày 16-8-2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng Khóa XIII ban hành Kết luận số 13-KL/TW, về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW, ngày 22-10-2010, của Bộ Chính trị khoá X, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030. Trong những năm qua, công tác phòng, chống tội phạm đạt được nhiều kết quả to lớn: Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả, huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia; công tác đấu tranh chống các loại tội phạm được tập trung chỉ đạo quyết liệt, không có vùng cấm, triệt phá nhiều tụ điểm, đường dây, băng nhóm tội phạm nguy hiểm; điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các hành vi phạm tội, đặc biệt là các vụ án trọng điểm, phức tạp về kinh tế, tham nhũng lớn, tỷ lệ thu hồi tài sản tăng lên rõ rệt; tội phạm được kiềm chế...

Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, tình hình tội phạm vẫn diễn biến hết sức phức tạp, nhiều loại tội phạm với thủ đoạn mới nổi lên, trong đó có tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng luôn gây ra nhiều thiệt hại về tài sản và uy tín của hệ thống các tổ chức tín dụng diễn biến hết sức phức tạp, xảy ra nhiều vụ án nghiêm trọng với số tiền lên đến hàng nghìn tỷ đồng, gây thiệt hại lớn về tài sản, tác động tiêu cực đến thị trường tài chính và hoạt động sản xuất, kinh doanh, gây dư luận xấu trong xã hội, nhất là trong bối cảnh hoạt động kinh doanh ngân hàng đối diện với nhiều thách thức, khó khăn, nhất là tỷ lệ nợ xấu gia tăng.

Tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng được quy định tại Điều 206, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thay thế tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, quy định tại Điều 1999, Bộ luật Hình sự năm 1999. Điều 206, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Bộ luật Hình sự, do người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức cố ý xâm phạm đến các quy định của Nhà nước trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong nước, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, gây thiệt hại về tài sản và phải bị xử lý hình sự.

Theo thống kê của Cục Cảnh sát kinh tế, từ năm 2012 đến năm 2022, lực lượng cảnh sát kinh tế đã khởi tố 95 vụ với 290 bị can vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, gây thiệt hại hàng chục nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ khoảng 20% so với tổng số các loại tội phạm kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng. Tình hình số vụ vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng thời gian qua tăng giảm không theo quy luật nhưng có xu hướng giảm về số đối tượng, nhưng mức độ thiệt hại lại gia tăng. Đã có nhiều vụ án gây ra hậu quả thiệt hại với số tài sản vô cùng lớn, như: (1) Vụ án vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng xảy ra tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (DAB), liên quan đến Trần Phương Bình, vay tiền trái quy định pháp luật, vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, gây thiệt hại hơn 5.518 tỷ đồng (trong đó, 1.826 tỷ đồng tiền gốc và 3.691 tỷ đồng tiền lãi); (2) Vụ án vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng liên quan đến Trần Bắc Hà, vay trái quy định, gây thất thoát của BIDV số tiền đặc biệt lớn là 1.664 tỷ đồng...

Tình hình tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng trong những năm qua diễn biến rất phức tạp, thường hoạt động theo tổ chức, có sự móc ngoặc, câu kết giữa các đối tượng là cán bộ trong các ngân hàng với các đối tượng ngoài ngân hàng, trung bình có 3,1 đối tượng/1 vụ. Đặc biệt là hành vi phạm tội của nhóm đối tượng là cán bộ ngân hàng ngày càng nghiêm trọng. Hầu hết các vụ án vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng đều do cán bộ ngân hàng trực tiếp thực hiện. Nếu như trước đây, các cán bộ thẩm định hồ sơ, cán bộ tín dụng thường là đối tượng phạm tội thì đến nay ở các chức vụ cao hơn như trưởng phòng kế toán, trưởng phòng kinh doanh, giám đốc, phó giám đốc, tổng, phó tổng giám đốc cũng đã là những đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, gây ảnh hưởng đến uy tín của các hệ thống ngân hàng.

Về địa bàn hoạt động, loại tội phạm này chủ yếu xảy ra ở các thành phố lớn, như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng... và các tỉnh đông dân cư, có nhiều điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Với đặc điểm riêng về kinh tế, chính trị và là những nơi đứng đầu về phát triển kinh tế của cả nước, thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là những địa bàn có nhiều chi nhánh, điểm giao dịch ngân hàng, tập trung nguồn vốn lớn cho các doanh nghiệp, cá nhân, cung ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế, từ đó cũng là nơi phát sinh nhiều và phức tạp nhất các loại tội phạm về ngân hàng.

Phương thức thủ đoạn phạm tội này ngày càng hoạt động tinh vi, xảo quyệt hơn, đặc biệt cấu kết với các loại tội phạm công nghệ cao, tội phạm đa quốc gia, tập trung chủ yếu qua các hành vi: Cho vay không bảo đảm tính pháp lý, chính xác về tài liệu, hồ sơ cho vay, như sử dụng hồ sơ tài sản thế chấp giả, hợp đồng, hóa đơn mua bán giả, “dự án ma”, phương án kinh doanh giả, chứng thư bảo lãnh giả... Cán bộ, nhân viên ngân hàng sửa chữa giấy tờ tài sản cầm cố làm tăng giá trị, thông đồng với các đối tượng khác để cho vay với giá trị lớn. Kiểm tra, giám sát không chặt chẽ trong quá trình khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, sai phương án kinh doanh trong hồ sơ vay hoặc để thực hiện các hoạt động trái pháp luật khác. Không đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan chức năng chưa công nhận và thực hiện các quyền lợi liên quan. Cán bộ ngân hàng móc nối với khách hàng, doanh nghiệp không còn khả năng tài chính để được vay tiếp, vay tiền tín dụng đem đảo nợ, làm thủ tục đảo nợ khống, thực hiện giải chấp tài sản bảo đảm trong khi khách hàng chưa trả hết nợ và dùng tài sản đó thế chấp tiếp. Vi phạm quy định về cho vay và hỗ trợ lãi suất, như: không đúng thời gian (vượt quá thời gian sử dụng vốn vay thực tế), không đúng đối tượng (các khoản vay đã được các ngân hàng khác hỗ trợ, khoản vay không xác định được tài sản...)…

Nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng gia tăng là do: Công tác quản lý thực hiện quy trình thẩm định hồ sơ vay vốn của ngân hàng còn lỏng lẻo, không kịp thời phát hiện được những tồn tại, hạn chế trong quy trình hoạt động và các hành vi vi phạm pháp luật; nhận thức và trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ còn chưa cao; một số văn bản pháp luật xuất hiện những vướng mắc, bất cập, chồng chéo giữa Luật các tổ chức tín dụng và các luật khác; việc kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng có rất nhiều sơ hở, lỏng lẻo, không kịp thời phát hiện được những tồn tại, hạn chế trong quy trình hoạt động và các hành vi vi phạm pháp luật; cơ chế bảo mật, bảo đảm an toàn của hệ thống ngân hàng vẫn còn những kẽ hở, trong khi thủ đoạn của tội phạm ngày càng tinh vi, nhất là sử dụng công nghệ cao...

Nền kinh tế Việt Nam trong năm qua không tránh khỏi sức ép từ các biến động kinh tế toàn cầu, như: Cuộc xung đột Nga - Ukraine đã kéo theo một loạt ảnh hưởng lên thị trường thế giới, như: giá dầu và lương thực gia tăng, lạm phát tăng nhanh khiến Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ và hầu hết các ngân hàng trung ương các nước đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để chống lạm phát. Hệ thống ngân hàng cả nước cũng phải đương đầu với các thách thức đáng kể về thiếu hụt thanh khoản thị trường do lãi suất được điều chỉnh để kiềm chế lạm phát và ổn định tỷ giá, cũng như hiệu ứng của việc xử lý một số vụ việc vi phạm liên quan tới trái phiếu doanh nghiệp. Dư nợ xấu tại thời điểm cuối năm 2022 đã tăng đến 35% so với hồi đầu năm, lên trên 136.400 tỷ đồng. Có 13/27 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng lên, 11/27 ngân hàng giảm xuống. Tỷ lệ nợ xấu trung bình năm 2022 của 27 ngân hàng đã tăng gần 0,7 điểm % so với cùng kỳ năm 2021. Rủi ro đặc biệt hiện hữu và tăng lên xuất phát từ sự đóng băng của thị trường bất động sản, lĩnh vực đóng góp tới 21% dư nợ tín dụng của toàn hệ thống, chưa tính đến khoảng 4% dư nợ trái phiếu sở hữu ngoài hệ thống tín dụng...

Trong thời gian tới, tình hình kinh tế, tài chính ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục gặp nhiều thách thức và tác động trực tiếp đến diễn biến hoạt động của tội phạm về lĩnh vực ngân hàng nói chung và tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng nói riêng:

Thứ nhất, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng có xu hướng tăng, tiềm ẩn nhiều rủi ro và ảnh hưởng đến sự phục hồi của nền kinh tế đất nước. Việc không thu hồi được nợ khiến nguồn vốn của ngân hàng bị thất thoát, lợi nhuận sụt giảm. Tỷ lệ nợ quá hạn cao ít nhiều làm cho niềm tin vào tiềm lực tài chính của ngân hàng bị giảm sút, dẫn đến rủi ro thanh toán. Từ đó, cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng bị hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.

Thứ hai, tốc độ phát triển nhanh chóng của các công ty cung cấp dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, chấm điểm tín dụng, cho vay ngang hàng…  có thể tạo ra các thách thức trong công tác giám sát, quản lý của cơ quan quản lý, như: Vấn đề bảo đảm an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền lợi người tiêu dùng, nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố…

Thứ ba, đối với hoạt động ngân hàng Việt Nam, Cách mạng công nghệ 4.0 sẽ mang lại cơ hội cho việc ứng dụng công nghệ quản trị thông minh bằng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa trong quy trình nghiệp vụ; đẩy nhanh tiến trình hướng tới mô hình chuẩn trong tương lai, trong đó bao gồm hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Đồng thời, những tiến bộ từ cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 là động lực giúp các ngân hàng trong nước phát triển và cạnh tranh với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, khoa học công nghệ 4.0 cũng tạo ra một số thách thức đối với lĩnh vực thanh toán và hoàn thiện hành lang pháp lý, phục vụ hoạt động thanh toán điện tử. Trong đó, khuôn khổ pháp lý và cơ chế, chính sách liên quan đến các dịch vụ, phương tiện thanh toán trực tuyến, điện tử mới, hiện đại, tiền ảo, thẻ ảo, tiền điện tử,… là những vấn đề mới và phức tạp, cần được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và viễn thông. Đồng thời, gia tăng những rủi ro tội phạm công nghệ khiến các ngân hàng trở thành đối tượng ưa thích của tội phạm với tần suất, quy mô và mức độ ngày càng tinh vi hơn.

Thứ tư, hậu quả của tình hình dịch bệnh COVID-19 khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng kéo theo các vấn đề về an sinh xã hội, gây áp lực sẽ gia tăng tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng. Các băng nhóm tội phạm kinh tế sẽ gia tăng hoạt động, lợi dụng chính sách phục hồi kinh tế, an sinh xã hội để trục lợi. Bên cạnh đó cũng nảy sinh tội phạm lừa đảo, chiếm dụng vốn, các hình thức thông đồng, móc ngoặc để “đáo nợ” ngân hàng, gây nguy cơ thất thoát tài sản cho các hệ thống ngân hàng thương mại.

Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng và giảm thiểu các khoản nợ xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước, các cấp, các ngành và chủ công là lực lượng cảnh sát kinh tế cần tập trung thực hiện một số giải pháp:

Một là, hoàn thiện hành lang pháp lý có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.

Sửa đổi, bổ sung các văn bản cho phù hợp với Luật các tổ chức tín dụng, văn bản pháp luật liên quan, yêu cầu thực tiễn về quản lý nhà nước và hoạt động của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, sửa đổi một số quy định để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng chức năng, các ngân hàng thương mại. Lực lượng cảnh sát kinh tế tập trung rà soát, nghiên cứu, từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đặc điểm tội phạm học và công tác phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện đấu tranh, xử lý tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.

Hai là, đổi mới công tác tuyên truyền đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.

Công an tỉnh Bình Dương trao tặng giấy khen cho ba nhân viên ngân hàng và một người dân tham gia bắt cướp ngân hàng xảy ra tại trấn Lai Uyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương_Ảnh: TTXVN

Áp dụng có hiệu quả công nghệ hiện đại, phương tiện thông tin đại chúng để việc tuyên truyền tiếp cận đến đông đảo nhân dân, các địa bàn, khu vực của đất nước. Đổi mới hình thức vận động quần chúng nhân dân tham gia phát hiện và tố giác tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Thông qua truyền thông, phổ biến đầy đủ thông tin về thủ đoạn của tội phạm lĩnh vực ngân hàng, hướng dẫn cụ thể về quy trình tố giác tội phạm đến nhân dân, giúp quá trình tiếp nhận, xác minh thông tin tội phạm được đẩy nhanh tiến độ.

Ba là, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.

Tập trung nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về công tác phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, trang bị kiến thức cho từng cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ được tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, vị trí, vai trò của công tác phòng ngừa tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng.

Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ cảnh sát kinh tế. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm về nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng, nghiệp vụ công an; tổ chức nghiên cứu khoa học, hội thảo, đào tạo ngoại ngữ, tin học, để cán bộ, chiến sĩ nắm bắt thêm những kinh nghiệm trong việc giải quyết án liên quan đến hoạt động ngân hàng nhằm vận dụng linh hoạt trong việc xử lý, phát huy được tính độc lập, chủ động trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ do pháp luật quy định, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Bốn là, ứng dụng công nghệ thông tin bắt kịp xu hướng phát triển của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0.

Quan tâm đầu tư đội ngũ lực lương chuyên trách đủ kỹ năng, thông thạo về lĩnh vực ngân hoàng, ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng đủ yêu cầu đặt ra với công tác quản lý, phòng, chống tội phạm về lĩnh vực ngân hàng. Củng cố hoàn thiện hệ thống công nghệ và cơ sở dữ liệu để thu thập thông tin về hoạt động ngân hàng nhằm bảo đảm tính đầy đủ về cơ sở dữ liệu phục vụ quá trình phân tích, đánh giá, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật.

Chủ động đổi mới và xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật số hiện đại và quan tâm tới an ninh, bảo mật theo tiêu chuẩn quốc tế. Triển khai áp dụng sớm các biện pháp bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng điện tử với công nghệ bảo mật tiên tiến, như xác thực sinh học, công nghệ chống tấn công, hệ thống bảo mật ba lớp… Bên cạnh đó, tiến hành rà soát, kiểm tra thường xuyên tình hình bảo mật, an ninh để sớm phát hiện nguy cơ lộ lọt thông tin khách hàng, hoạt động tín dụng của các ngân hàng.

Năm là, nâng cao công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực ngân hàng.

Kiện toàn bộ máy nhân sự của các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra hoạt động ngân hàng thuộc các bộ ban, ngành. Tập trung, thống nhất xây dựng cụ thể kế hoạch và nội dung về các hoạt động chuyên môn và nghiệp vụ thanh tra ngân hàng. Đổi mới mô hình tổ chức thanh tra, kiểm tra ngân hàng theo hướng bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất, tránh tình trạng chồng chéo, bỏ sót nhiệm vụ. Xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm, nhanh chóng đánh giá phân tích các phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm; nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, tập trung phát hiện những sơ hở mà tội phạm lợi dụng trong công tác quản lý của các lực lượng chức năng, từ đó xây dựng các biện pháp khắc phục.

Sáu là, tăng cường công tác phối hợp chặt chẽ, kịp thời giữa các bộ, ngành và đẩy mạnh hợp tác quốc tế.

Tích cực phối hợp trong công tác quản lý, trao đổi thông tin giữa cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan chức năng cùng với các hệ thống ngân hàng, như: Những thay đổi về chính sách, nghiệp vụ tín dụng, các phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm ngân hàng… Sơ kết, tổng kết theo giai đoạn các quy chế, kế hoạch phối hợp góp phần nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy trong công tác lãnh đạo, chỉ huy tạo sự thống nhất về vị trí, vai trò, mục đích, nguyên tắc, đối tượng, biện pháp, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác phối hợp giữa các lực lượng. Trên cơ sở những đánh giá trên, các chủ thể phối hợp tiến hành xây dựng các quy chế, kế hoạch mới bổ sung những yếu tố còn thiếu và chú trọng hướng dẫn đầy đủ các nội dung phối hợp để từ đó phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm, kiến thức, kỹ năng.

Nghiên cứu mở rộng và thiết lập các cơ chế hợp tác song phương với các nước, tổ chức quốc tế trong khu vực và thế giới về phòng, chống tội phạm ngân hàng. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các điều ước quốc tế, các hiệp định, thỏa thuận hợp tác mà nước ta đã ký hoặc gia nhập./.

---------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 58