Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

TS. Nguyễn Vinh Hưng - TS. Nguyễn Phúc Thiện
Đại học Quốc gia Hà Nội - Đại học Kinh doanh và công nghệ
11:24, ngày 26-07-2022

TCCS - Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân luôn là luôn là mục tiêu quan trọng hàng đầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Công nghiệp 4.0), lĩnh vực thi hành án dân sự sẽ gặp nhiều tác động, cả thuận lợi và khó khăn, thử thách. Do đó, việc nghiên cứu về sự tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam càng trở nên cần thiết và rất quan trọng.

Tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thi hành án dân sự tại Việt Nam

Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những nội dung quan trọng đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 (1). Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) (2) quy định về cách thức tổ chức thi hành bản án, quyết định dân sự để vừa bảo đảm giữ gìn, bảo vệ kỷ cương, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa hướng đến mục tiêu quan trọng là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Hiện nay, thi hành án dân sự “là hoạt động quan trọng để các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án và các cơ quan tài phán được thực hiện trên thực tế, góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bảo đảm công bằng, thực thi công lý và củng cố lòng tin của người dân”(3). Như vậy, về bản chất, “thi hành án dân sự là quá trình thực hiện bản án, quyết định dân sự (bao gồm các lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình) của tòa án hoặc các chủ thể có thẩm quyền ra các phán quyết khác”(4).

Trong giai đoạn phát triển hiện nay, “cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển, trong đó, đặc biệt các thành tựu của khoa học - công nghệ đã tác động và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội”(5). Nghiên cứu cho thấy, tại Việt Nam, kể từ khi “internet xuất hiện, hình thành một môi trường đặc biệt - môi trường kỹ thuật số”(6). Nhờ vào các thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ, hầu hết các lĩnh vực liên quan đến quản lý nhà nước tại Việt Nam nói chung và lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng đã có nhiều thay đổi quan trọng.

Trước đây, tại các cơ quan thi hành án dân sự, việc tổng kết số liệu thi hành án hằng năm và lập các báo cáo thống kê luôn mất khá nhiều công sức, rắc rối, phức tạp và thường chiếm nhiều thời gian. Không những vậy, việc tiến hành thủ công với những cách tính toán cơ học có thể dẫn tới trường hợp xảy ra nhầm lẫn, sai sót, dẫn đến hiệu quả công việc thấp. Đó cũng chính là lý do, việc tổng kết, lập báo cáo được đánh giá là một trong những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, nhờ việc triển khai hệ thống phần mềm công nghệ thông tin, việc lập các báo cáo, thống kê trở nên đơn giản, dễ dàng, thuận tiện và nhanh chóng hơn trước. Về cơ bản, các cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự chỉ cần nhập vào máy tính các số liệu và nhanh chóng có được kết quả với độ chính xác gần như tuyệt đối. Hiệu quả công việc cũng cao hơn trước do hạn chế được sự nhầm lẫn. Cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự đã rút ngắn được khá nhiều thời gian, công sức cho việc lập các báo cáo thống kê, tổng kết; nhờ đó có thêm thời gian, công sức để tập trung giải quyết những nhiệm vụ quan trọng khác của công tác thi hành án dân sự.

Đội ngũ công chức, viên chức, người lao động của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quản Ninh thực hiện nhiệm vụ được giao_Nguồn: campha.gov.vn

Đối với công tác chuyển giao các loại văn bản, tài liệu, giấy tờ, thông báo giữa cơ quan thi hành án dân sự với nhau hay giữa cơ quan thi hành án dân sự với tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan, đơn vị nhà nước khác cũng trở nên đơn giản, nhanh chóng và thuận tiện hơn. Đây là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng đối với tố tụng dân sự và thi hành án dân sự: “Tòa án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự có nghĩa vụ cấp, tống đạt hoặc thông báo các văn bản tố tụng cho những người liên quan đến vụ việc dân sự”(7).

Trước đây, việc chuyển giao các loại văn bản, tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan trên đều phải tiến hành thủ công, như gửi qua đường bưu điện, qua nhân viên chuyên vận chuyển các loại công văn giữa các cơ quan, đơn vị. Thế nhưng, giả thiết nếu khoảng cách địa lý quá xa hoặc do có sự cản trở bởi lũ lụt, thiên tai thì việc chuyển giao các loại tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan, đơn vị sẽ rất khó khăn và khó có thể thực hiện nhanh chóng, kịp thời. Trong khi đó, “đối với hoạt động tố tụng, cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng đem lại sự thông suốt cho cả quá trình tố tụng, chúng là các mắt xích quan trọng để tiến hành các trình tự tố tụng, chỉ cần các mắt xích đó “lỗi” hoặc “đứt” thì công tác tố tụng bị đình trệ, tắc nghẽn”(8).

Nhờ vào các thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ, việc liên lạc, trao đổi giữa các cơ quan trên diễn ra rất nhanh chóng, đơn giản và luôn có thể thực hiện được. Từ đó, ít nhiều hỗ trợ cho các cơ quan trên đỡ mất thời gian, công sức để tiến hành các hoạt động cấp, tống đạt, thông báo các loại công văn, giấy tờ và tài liệu liên quan đến quá trình xét xử giải quyết tranh chấp và thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, hiện nay, chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước là xã hội hóa thi hành án dân sự với sự khôi phục chế định pháp luật về thừa phát lại cũng đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác xét xử giải quyết tranh chấp và thi hành án dân sự. Trong đó, thừa phát lại được quyền tiến hành các hoạt động “tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho tòa án, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự”(9). Khi liên lạc, trao đổi với các cơ quan trên, thừa phát lại cũng rất cần sự hỗ trợ từ các thiết bị công nghệ như máy tính, máy in, điện thoại, internet… Do đó, có thể thấy rằng, những thành tựu quan trọng của khoa học - công nghệ đã và đang tác động tích cực đến hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam.

Hoạt động ủy thác thi hành án dân sự là một trong những hoạt động thường xuyên diễn ra giữa các cơ quan thi hành án dân sự. Về nguyên tắc, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở(10). Bởi lẽ, không phải mọi trường hợp, cơ quan thi hành án dân sự đều có thể tự giải quyết mọi vấn đề liên quan đến thi hành án. Trong rất nhiều trường hợp, để thuận tiện, dễ dàng và phù hợp với tình hình, hoàn cảnh của vụ, việc thi hành án, các cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho nhau.

Trong quá trình ủy thác thường có rất nhiều vấn đề cần liên tục trao đổi để kịp thời nắm bắt tình hình giữa các cơ quan thi hành án. Do đó, nếu chỉ giao tiếp qua các công văn, giấy tờ thông qua nhân viên giao nhận hoặc bưu điện thì có lẽ việc thi hành án sẽ gặp rất nhiều cản trở, khó khăn, rắc rối, phức tạp và mất khá nhiều thời gian. Việc thi hành án càng có thể tiến hành nhanh chóng, khẩn trương bao nhiêu càng có thể hạn chế tình trạng người phải thi hành án tìm mọi cách tẩu tán, che giấu tài sản bấy nhiêu. Nói cách khác, trong rất nhiều trường hợp, hiệu quả thi hành án phụ thuộc vào sự khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời của cơ quan thi hành án dân sự.

Nhờ có các thiết bị truyền thông hiện đại, việc liên lạc, trao đổi và thông tin giữa các cơ quan thi hành án, cho dù ở khoảng cách địa lý rất xa, luôn có thể liên tục, kịp thời và nhanh chóng. Khi có những vấn đề mới phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án thì cơ quan thi hành án nơi nhận ủy thác sẽ lập tức trao đổi với cơ quan thi hành án nơi ủy thác, để từ đó, kịp thời tìm ra cách giải quyết phù hợp với diễn biến của tình hình, hoàn cảnh. Nhờ thông tin được trao đổi thường xuyên, liên tục, kịp thời mà các cơ quan thi hành án dân sự có thể hỗ trợ, phối hợp thuận lợi với nhau để việc ủy thác thi hành án diễn ra hiệu quả và đúng pháp luật.

Về quá trình liên lạc, trao đổi giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến quá trình tổ chức thi hành án, như đã biết, thi hành án dân sự thường là quá trình khó khăn, rắc rối, phức tạp và luôn có sự liên quan đến khá nhiều chủ thể. Nói cách khác, đó không chỉ là quá trình thực hiện nội dung của bản án, quyết định liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà còn có sự liên quan đến rất nhiều chủ thể, như tổ chức tín dụng nơi trực tiếp quản lý tài khoản của người phải thi hành án hoặc công ty tài chính, cửa hàng cầm đồ, người đang trực tiếp nắm giữ tài sản của người phải thi hành án, cơ quan chi trả tiền lương, tiền lương hưu… Do đó, để có thể thi hành theo đúng nội dung của bản án, quyết định, cơ quan thi hành án dân sự luôn cần có sự chung tay, phối hợp, hỗ trợ từ rất nhiều chủ thể liên quan đến thi hành án.

Trước đây, quá trình liên lạc, trao đổi giữa cơ quan thi hành án với các chủ thể trên khá mất thời gian vì chủ yếu được tiến hành qua việc các chấp hành viên ra các quyết định hay các yêu cầu gửi đến các chủ thể có liên quan đến thi hành án. Ngoài ra, có những trường hợp khi cơ quan thi hành án dân sự cần khẩn trương, nhanh chóng liên lạc với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án để xác minh thu thập thông tin nhằm có đủ cơ sở cần thiết, từ đó, quyết định áp dụng các biện pháp bảo đảm như phong tỏa tài khoản hay tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản…(11) Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc liên lạc, trao đổi diễn ra khó khăn, chậm chễ và có thể dẫn tới việc người phải thi hành án tẩu tán các tài sản trước khi bị cơ quan thi hành án dân sự áp dụng các biện pháp ngăn chặn.

Hiện nay, nhờ vào việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, cơ quan thi hành án dân sự có thể dễ dàng, nhanh chóng liên lạc, trao đổi với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án, để từ đó, kịp thời có các biện pháp ngăn chặn người phải thi hành án che dấu, tẩu tán tài sản. Nhiều trường hợp thông qua trao đổi bằng điện thoại, thư điện tử (email) và các phương thức truyền tin phổ biến, như chat qua các phần mềm thông dụng Zalo, Messenger, Viber, Facebook… mà cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án đã kịp thời tương tác, trao đổi và truyền gửi cho nhau những thông tin và tài liệu quan trọng, cần thiết, như số dư trong tài khoản hay các bức ảnh, video về tài sản của người phải thi hành án. So với việc các cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự phải tự mình đi đến tận nơi để xác minh hay thu thập thông tin thì nhờ các thiết bị công nghệ đã giúp quá trình ấy diễn ra nhanh chóng, dễ dàng, ít tốn kém cả về chi phí, thời gian và công sức. Từ đó, hiệu quả của công tác thi hành án được nâng cao.

Tuy nhiên, mặc dù Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến rất nhiều ưu thế và cơ hội thuận lợi cho ngành tư pháp nói chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng nhưng cũng gây ra những khó khăn, thử thách đối với hoạt động thi hành án dân sự. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự tiến bộ của khoa học - công nghệ trong kỷ nguyên số cũng sẽ trở thành “con dao hai lưỡi” nếu chúng ta không kịp thời quản lý, ngăn chặn các hành vi độc hại và vi phạm pháp luật.

Điển hình là, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao hoặc sử dụng công nghệ cao ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự là vẫn phải thi hành phần “quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của tòa án”(12). Do đó, khi thực thi các bản án, quyết định liên quan đến tội phạm công nghệ cao hoặc sử dụng công nghệ cao thì cơ quan thi hành án dân sự luôn gặp nhiều khó khăn, phức tạp và trách nhiệm rất nặng nề. Bởi lẽ, để xác minh các nguồn tài sản, tài khoản của tội phạm công nghệ cao đòi hỏi cần có sự hiểu biết sâu sắc về các thiết bị công nghệ cũng như cách thức vận hành của chúng vì các chủ thể bị xử phạt luôn tìm mọi cách tẩu tán, che giấu các thông tin xác thực về tài khoản, tài sản. Mặt khác, đối với các vụ, việc thi hành án này thường có sự liên quan đến rất nhiều chủ thể và cơ quan thi hành án dân sự luôn cần có sự hỗ trợ, phối hợp từ cơ quan phòng, chống tội phạm công nghệ cao, cơ quan thuế, hải quan…

Bên cạnh đó, từ thực tế thi hành án dân sự cho thấy, không ít trường hợp, giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng là người phải thi hành án cũng đã có sự móc ngoặc, bênh vực nhau. Rất nhiều trường hợp ngay khi người được thi hành án, chấp hành viên hay thừa phát lại tiến hành các biện pháp xác minh điều kiện thi hành án thì nhân viên của tổ chức tín dụng đã bí mật báo cho người phải thi hành án. Người phải thi hành án chỉ cần một số thao tác chuyển tiền đơn giản qua máy tính hoặc điện thoại di động đến các tài khoản khác nhau và có thể rút ra trước khi cơ quan thi hành án triển khai áp dụng các biện pháp bảo đảm.

Nhiều trường hợp người phải thi hành án hay những người thân thích của họ tìm mọi cách chống đối, cản trở việc thi hành án, như nhắn tin, gọi điện, gửi thư điện tử để đe dọa, vu khống, bịa đặt, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của chấp hành viên hay của những cán bộ liên quan đến thi hành án. Thậm chí có những trường hợp sử dụng mạng xã hội để lôi kéo, kích động những thế lực chống đối, phản động về việc thi hành án dân sự tại Việt Nam, hòng gây nên những hệ quả không tốt và ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngành thi hành án dân sự.

Tóm lại, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động và ảnh hưởng rất lớn đến công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển khoa học - công nghệ là xu hướng chung của xã hội văn minh, hiện đại và Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế đó. Vì vậy, cần kịp thời có các giải pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật; cũng như sử dụng các thành quả của khoa học - công nghệ để phục vụ cho quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Có như vậy, hiệu quả của thi hành án dân sự mới được nâng cao và đáp ứng công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đang hướng đến.

Một số kiến nghị

“Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu” (13) là chủ trương phát triển đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay. Cùng với hội nhập về mặt kinh tế, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng cũng đã và đang tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Chính vì vậy, để cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hỗ trợ đắc lực và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực, cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, cần khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan đến việc chuyển giao các bản án, quyết định, tài liệu, giấy tờ giữa tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự. Sở dĩ cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu kết nối chung giữa ba cơ quan này bởi đây đều là các cơ quan tư pháp và trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử và thi hành án dân sự.

Trên thực tế, “xét xử giải quyết tranh chấp và thi hành án dân sự là một quá trình thống nhất diễn ra trên cơ sở kế tiếp nhau”(14). Nói cách khác, việc thi hành án dân sự được thực hiện trên cơ sở nội dung của bản án, quyết định và việc chuyển giao các văn bản tố tụng, tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan liên quan trực tiếp. Như đã phân tích, việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan này do người trong các cơ quan đó thực hiện hoặc thuê khoán cho thừa phát lại, tuy nhiên việc chuyển giao thủ công không thể nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng và kịp thời bằng việc sử dụng các phương tiện điện tử. Đơn giản như việc kết nối mạng giữa các cơ quan có thể giúp cho việc chuyển giao các thông báo diễn ra trong thời gian rất ngắn và còn bảo đảm vấn đề bảo mật thông tin vì không cần in ấn, đóng dấu và vận chuyển qua lại, rồi bảo quản, lưu trữ.

Do đó, đồng thời với việc cần thiết nhanh chóng nghiên cứu và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung giữa ba cơ quan tư pháp, cần quy định bổ sung về hình thức cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, giấy tờ thông qua phần mềm máy tính. Bất cứ lúc nào, cơ quan thi hành án dân sự đều có thể truy cập cơ sở dữ liệu để nắm bắt đầy đủ, chính xác nội dung của bản án, quyết định và các văn bản tố tụng, thông báo, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án. Cơ sở dữ liệu chung cũng giúp cho viện kiểm sát nhân dân dễ dàng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử giải quyết tranh chấp và việc tổ chức thi hành án dân sự. Không những vậy, việc sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu chung còn góp phần làm giảm bớt công tác giao nhận và bảo quản các loại tài liệu, giấy tờ. Điều này góp phần làm cắt giảm thủ tục hành chính cho cả ba cơ quan trên và đỡ tốn kém khi phải sắp xếp nhân lực hoặc thuê mướn thừa phát lại tống đạt các văn bản tố tụng, giấy tờ như hiện nay.

Phối hợp chặt chẽ, kịp thời với các cơ quan hữu quan để không ngừng nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự_Nguồn: campha.gov.vn

Đây là giải pháp hiệu quả mang lại đóng góp lâu dài và góp phần hiện đại hóa công tác chuyển giao các tài liệu, văn bản, giấy tờ giữa tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự. Đồng thời, còn phù hợp với chủ trương phát triển công dân số, xã hội số và Chính phủ điện tử tại Việt Nam.

Hai là, cần xây dựng hướng dẫn về việc trao đổi, liên hệ, đưa ra các yêu cầu trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án.

Việc sử dụng các tiện ích của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư giúp cho việc liên lạc, trao đổi giữa cơ quan thi hành án dân sự với các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến thi hành án diễn ra rất nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng và ít tốn kém. Thậm chí, không ít trường hợp, còn giúp cho cơ quan thi hành án dân sự có thể nắm bắt, thu nhận được những thông tin quan trọng và cần thiết, nhờ đó, quá trình tổ chức thi hành án dân sự diễn ra thuận lợi, an toàn, hiệu quả. Tuy nhiên, vấn đề bất cập là vẫn chưa có hướng dẫn hay quy định về việc cơ quan thi hành án dân sự có thể yêu cầu đến các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến thi hành án thông qua các phương tiện điện tử, như gọi điện thoại, trao đổi thông tin qua internet (chat), thư điện tử (email)… Có thể do đây là các cách thức trao đổi mang tính chất cá nhân, có nhiều rủi ro hoặc còn quá mới lạ, vậy nên, pháp luật thi hành án dân sự của Việt Nam chưa kịp thời ghi nhận và có sự điều chỉnh.

Tuy vậy, trong kỷ nguyên cách mạng số, việc trao đổi qua các phương tiện điện tử có kết nối internet đã và đang trở nên hết sức phổ biến và hầu hết người dân Việt Nam hiện nay đều hằng ngày sử dụng internet. Mặt khác, các tài khoản trên các phương tiện truyền thông xã hội cũng ngày càng được quản lý chặt chẽ để tránh các hành vi lợi dụng để vi phạm pháp luật. Chính vì vậy, cần nghiên cứu và xây dựng các hướng dẫn về việc cơ quan thi hành án dân sự có thể sử dụng các công cụ trên nền tảng internet, như trao đổi thông tin qua internet (chat), thư điện tử (email)… tới các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án và các chủ thể này buộc phải chấp hành theo yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự. Ví dụ, cơ quan thi hành án dân sự quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản thì chỉ cần gọi điện cho các tổ chức tín dụng hoặc gửi thư điện tử thông báo và tổ chức tín dụng phải ngay lập tức thực hiện theo mệnh lệnh của cơ quan thi hành án dân sự.

Tất nhiên, khi nghiên cứu xây dựng các hướng dẫn thì cần chú ý đến rất nhiều vấn đề, như cách thức trao đổi, phương tiện dùng để trao đổi, liên hệ giữa các bên, thời hạn mà bên nhận được yêu cầu sẽ phải thực hiện theo mệnh lệnh của cơ quan thi hành án dân sự, chế tài xử phạt nếu bên nhận được yêu cầu nhưng cố tình không thực hiện… Ngoài ra, ngay cả cách thức chứng minh hành vi vi phạm pháp luật khi bên nhận được yêu cầu cố tình không thực hiện theo mệnh lệnh của cơ quan thi hành án dân sự cũng cần quy định và hướng dẫn chi tiết, đầy đủ, rõ ràng. Làm được như vậy sẽ góp phần hỗ trợ đắc lực cho cơ quan thi hành án dân sự và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.

Ba là, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và nâng cao trình độ khoa học – công nghệ cho đội ngũ cán bộ, công chức chịu trách nhiệm tổ chức thi hành án dân sự.

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang mang đến các tác động, ảnh hưởng tích cực và cả tiêu cực đối với hoạt động thi hành án dân sự, càng cần quán triệt và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nói cách khác, hoạt động thi hành án dân sự chỉ có thể thành công nếu như đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi các cán bộ, công chức của ngành thi hành án dân sự phải không ngừng nỗ lực cố gắng, trau dồi về kỹ năng, kinh nghiệm, nhất là phải liên tục cập nhật và nâng cao trình độ hiểu biết về công nghệ thông tin. Tổng cục Thi hành án dân sự cần có những chương trình, kế hoạch được nghiên cứu xây dựng bài bản, khoa học, hiện đại để có thể cập nhật, bồi dưỡng và nâng cao khả năng sử dụng các thiết bị công nghệ cho đội ngũ cán bộ, công chức thuộc ngành mình phụ trách. Ngoài ra, cũng cần có chủ trương tuyển dụng các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin để kịp thời hỗ trợ cho các chấp hành viên trong quá trình liên lạc, trao đổi, ra các yêu cầu hay xác minh điều kiện thi hành án. Có như vậy, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam mới được tăng cường và quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự mới được bảo vệ./.

-------------------------

(1) Điều 14, Hiến pháp năm 2013.
(2) Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 64/2014/QH13; sau đó lại được sửa đổi, bổ sung theo Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14 và hợp nhất thành Luật Thi hành án dân sự số 13/VBHN-VPQH ngày 29-6-2018). Bài viết thống nhất viết tắt là “Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)” trên cơ sở quy định từ Luật Thi hành án dân sự số 13/VBHN-VPQH.
(3) Lê Thu Hà: Giáo trình Kỹ năng Thi hành án dân sự, Phần chung, Học viện tư pháp, Nxb. Tư pháp, 2010, tr. 39
(4) Nguyễn Vinh Hưng: “Quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự và thi hành án dân sự”, tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 06, 2016, tr. 4
(5) Nguyễn Vinh Hưng và Phan Quốc Nguyên: “Sự tác động của nền kinh tế số đến hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam”, tạp chí Nghề luật, số 10, 2020, tr. 19
(6) Nguyễn Thị Hải Vân: “Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số - nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng luật Hadopi của Cộng hòa Pháp”, http://www.agllaw.com.vn/bao-ho-quyen-tac-gia-trong-moi-truong-ky-thuat-so-nghien-cuu-kinh-nghiem-ap-dung-luat-hadopi-cua-cong-hoa-phapbao-ho-quyen-tac-gia-trong-moi-truong-ky-thuat-so-nghien-cuu-kinh-nghiem-ap-dung-luat/
(7) Đại học Quốc gia Hà Nội: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014, tr. 191
(8) Đại học Quốc gia Hà Nội: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Sđd, tr. 189 – 190
(9) Điểm a, khoản 1, Điều 32 của Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, ngày 08/01/2020 về “Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại
(10) Khoản 1, Điều 55 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)
(11) Khoản 3, Điều 66 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)
(12) Điều 1, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 40 – 41
(14) Nguyễn Vinh Hưng: “Quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự và thi hành án dân sự”, Tlđd, tr. 3 - 8