TCCS - Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng ta luôn đề cao vai trò của văn hóa, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nguồn lực to lớn góp phần phát triển kinh tế. Do đó, quan điểm phát triển văn hóa gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế đã và đang được triển khai trong thực tiễn, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển bền vững.

1- Phát triển văn hóa và phát triển kinh tế có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Phát triển kinh tế góp phần tạo nền tảng, cơ sở vật chất cho phát triển văn hóa và phát triển văn hóa tạo dựng nền tảng tinh thần của xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực, trong đó có kinh tế. Từ nhận thức trên, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm phát triển gắn kết hài hòa giữa văn hóa và kinh tế, xác định kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách. Các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển văn hóa đều hướng tới việc lan tỏa, gia tăng giá trị văn hóa trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy sự phát triển hài hòa giữa văn hóa và kinh tế, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.

Trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ_Ảnh: Tư liệu

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” chỉ rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế; các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, pháp luật, kỷ cương... Nghị quyết đã đề ra chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa, đồng thời bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc(1). Chính sách này góp phần khai thác giá trị kinh tế của các yếu tố văn hóa, xây dựng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa để văn hóa trở thành “hàng hóa đặc biệt” đa giá trị, vừa mang lại giá trị kinh tế, vừa góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố “sức mạnh mềm văn hóa” của Việt Nam. Nghị quyết cũng đề ra chính sách văn hóa trong kinh tế nhằm bảo đảm văn hóa phải được thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện hơn cho văn hóa phát triển… Việc xây dựng các mục tiêu, giải pháp phát triển kinh tế phải gắn với các mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa, chăm lo con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất, kinh doanh. Xây dựng văn minh thương nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, văn hóa kinh doanh(2).

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2014) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp tục khẳng định quan điểm cần phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, đồng thời nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Nghị quyết nêu 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh tới nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế.

Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta chỉ rõ “phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn(3), trong đó có quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”(4). Quan điểm tiếp tục được Đại hội XII, XIII của Đảng kế thừa. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: một trong mười mối quan hệ lớn là mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(5); đồng thời xác định văn hóa là một trong những khâu đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021 - 2030): “Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào, ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế; đề cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo pháp luật”(6)nhấn mạnh các nhiệm vụ, như: phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; xây dựng môi trường văn hóa toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế… Hình thành thị trường sản phẩm dịch vụ văn hóa, thông tin lành mạnh… Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới(7).  

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ rõ: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”(8). Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Do đó, cần coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam(9).

Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng ta luôn đề cao vai trò quan trọng của văn hóa, nhất quán quan điểm phát triển văn hóa gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả, tạo cơ sở, nền tảng, nguồn lực, góp phần phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ tạo nền tảng tinh thần lành mạnh cho xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Do đó, không thể chỉ chú trọng mỗi kinh tế hoặc văn hóa, càng không thể chỉ chú trọng tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà xem nhẹ vai trò của văn hóa, bởi thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển bền vững.

2- Thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, thời gian qua, các địa phương trên cả nước đang triển khai các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế gắn kết với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và toàn xã hội về văn hóa cũng như sự phát triển văn hóa gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế được nâng lên theo hướng ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Việc xây dựng văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế ngày càng được đẩy mạnh. Từ đó, các giá trị văn hóa ngày càng lan tỏa mạnh mẽ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có kinh tế, gắn với văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân, đạo đức kinh doanh… Các Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9-12-2011, của Bộ Chính trị “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; Nghị quyết số 41-NQ/TW, ngày 10-10-2023, của Bộ Chính trị “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới” được triển khai rộng rãi, ngày càng đi vào cuộc sống cùng phong trào “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; góp phần nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ doanh nhân nước ta, củng cố và bồi đắp tinh thần dân tộc, đạo đức, văn hóa kinh doanh, ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp, doanh nhân với xã hội, từng bước tạo được uy tín cũng như xây dựng thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước. Cùng với đó, nhiều giá trị văn hóa và di sản văn hóa dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hóa trở thành nguồn lực, là “đầu vào của sản xuất” để xây dựng nên các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đặc sắc, đa giá trị thông qua sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa.

Ngày 8-9-2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg về “Phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” (gọi tắt là Chiến lược), trong đó khẳng định các ngành công nghiệp văn hóa là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển, vừa khai thác được những giá trị kinh tế của các nguồn lực văn hóa, vừa phát huy được các giá trị văn hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có kinh tế, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới; đồng thời bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tăng cường “sức mạnh mềm” của quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa nước ta dần được xác lập và phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của các tầng lớp nhân dân, vươn ra thế giới với nhiều sản phẩm được đầu tư, dàn dựng công phu và đặc sắc. Giai đoạn 2016 - 2018, các ngành công nghiệp văn hóa nước ta đã đóng góp doanh thu khoảng 8,081 tỷ USD (tương đương 3,61% GDP); năm 2021, là 3,92% GDP; năm 2022 tăng lên 4,04% GDP. Giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp trong giai đoạn 2018 - 2022 ước đạt 44 tỷ USD(10).   

Bên cạnh đó, các di sản văn hóa được khai thác và phát huy hiệu quả thông qua các hoạt động du lịch. Năm 2024, so với cùng kỳ năm 2023, ngành du lịch Việt Nam có bước phục hồi mạnh mẽ, đón 17,5 triệu lượt khách quốc tế, tăng 38,9%; khách nội địa ước đạt 110 triệu lượt, tăng 1,6%; tổng thu từ khách du lịch ước đạt khoảng 840 nghìn tỷ đồng, tăng 23,8%(11). Du lịch văn hóa cùng sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa đã góp phần tạo ra thêm việc làm, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Thực tiễn cho thấy, từ các phong trào thi đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, ngày càng xuất hiện nhiều điển hình được biểu dương, khen thưởng, lan tỏa trong đời sống xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Nỗ lực lan tỏa, gia tăng giá trị văn hóa trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy sự phát triển hài hòa giữa văn hóa và kinh tế_Ảnh: Tư liệu

Sự phát triển văn hóa đã góp phần quan trọng làm nên những thành tựu kinh tế của nước ta, giúp “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Nhờ phát huy truyền thống văn hóa đoàn kết, cần cù, sáng tạo và nỗ lực đổi mới, phấn đấu bền bỉ, liên tục trong gần 40 năm qua của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, từ một đất nước nghèo nàn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, đến nay, nước ta đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hóa - xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Trong bối cảnh kinh tế và thương mại toàn cầu suy giảm, kinh tế nước ta tiếp tục tăng trưởng nhanh, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới; giai đoạn 2016 - 2020 tăng trưởng bình quân khoảng 6%/năm; năm 2024 đạt 7,09%, nâng quy mô GDP nền kinh tế lên khoảng 476 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 4.700 USD/người, tăng 377 USD so với năm 2023”(12). Những kết quả đáng khích lệ trên cho thấy tính đúng đắn của việc phát triển văn hóa gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân, góp phần hiện thực hóa mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.

3- Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc giải quyết mối quan hệ giữa phát triển văn hóa và kinh tế ở nước ta vẫn còn một số hạn chế. Ở một số địa phương, “văn hóa chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong việc xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm”(13). Sự chênh lệch, khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, về cơ hội tiếp cận và thụ hưởng sản phẩm, dịch vụ văn hóa cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản khác giữa các vùng, miền và ngay trong một địa phương còn lớn. “Đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản văn hóa quý báu của dân tộc có nguy cơ xuống cấp, mai một”(14). Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội còn lúng túng, triển khai chậm, nhất là trong việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về sự gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế và văn hóa. Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế của một số cấp ủy, chính quyền, nhất là người đứng đầu, chưa đầy đủ. Một số địa phương chưa có quy hoạch tổng thể và đồng bộ để gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế và văn hóa, còn tách rời giữa hoạt động kinh tế và hoạt động văn hóa. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ở các cấp, ngành, cùng tệ nạn xã hội… đã và đang đặt ra những vấn đề cấp thiết trong xây dựng môi trường văn hóa hiện nay ở nước ta.

Trước những thời cơ và thách thức đặt ra trong thời kỳ mới, để bảo đảm phát triển hài hòa giữa văn hóa và kinh tế, góp phần vào sự phát triển đất nước bền vững, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, nhất là người đứng đầu và nhân dân về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của văn hóa, về yêu cầu tất yếu của việc bảo đảm phát triển hài hòa giữa văn hóa và kinh tế trong quá trình phát triển đất nước. Từ đó, xây dựng ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam trong mỗi công dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, quán triệt quan điểm phát triển kinh tế đồng bộ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thứ hai, đổi mới thể chế, hoàn thiện các cơ chế, chính sách văn hóa trong kinh tế, chính sách kinh tế trong văn hóa. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, xử lý tốt mối quan hệ giữa phát triển văn hóa với phát triển kinh tế của các cấp, các ngành và địa phương. Lồng ghép hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong triển khai chiến lược phát triển văn hóa và phát triển kinh tế (nhất là ngành du lịch). Tiếp tục thực hiện hiệu quả cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp hoặc tổ chức xã hội để đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm văn hóa, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Đẩy mạnh phát triển các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, góp phần bảo vệ môi trường và thích ứng linh hoạt, hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Thứ ba, xây dựng khung thể chế để phát triển các loại hình dịch vụ xã hội phi lợi nhuận do nhiều chủ thể cung ứng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tăng nhanh và đa dạng của các tầng lớp nhân dân, để thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội bền vững, cũng như khắc phục tình trạng thương mại hóa một số hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công trong lĩnh vực văn hóa - xã hội. Nâng cao trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, đẩy mạnh xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân, đạo đức kinh doanh. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp trong việc tổ chức, tham gia các hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở các lĩnh vực văn hóa - xã hội. Phát triển mạnh mẽ các dịch vụ xã hội vận hành theo nguyên tắc phi lợi nhuận, góp phần nâng cao đời sống toàn diện cho người dân.

Thứ tư, tiếp tục triển khai hiệu quả “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, Chỉ thị số 30/CT-TTg, ngày 29-8-2024, của Thủ tướng Chính phủ “Về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam”. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển từng ngành công nghiệp văn hóa với lộ trình, mục tiêu ưu tiên và giải pháp phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó chú trọng phát triển theo hướng chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao và đồng bộ, khai thác mọi tiềm năng, lợi thế về tài nguyên văn hóa đa dạng, hệ giá trị văn hóa Việt Nam để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có sức cạnh tranh trong môi trường quốc tế. Quy hoạch mạng lưới các doanh nghiệp công nghiệp văn hóa, trong đó hình thành một số doanh nghiệp mạnh, có thương hiệu, sức cạnh tranh cao cả trong nước và quốc tế. Tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến, lưu giữ các sản phẩm, dịch vụ văn hóa; đổi mới hoạt động quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thương hiệu doanh nghiệp văn hóa Việt Nam; nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa của công chúng.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, nghệ thut; tạo điều kiện thu hút và khuyến khích các tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp và nghệ sĩ tham gia vào các hoạt động văn hóa nhằm đa dạng hóa các nguồn lực vật chất và sự sáng tạo đối với các hoạt động phát triển văn hóa, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Đổi mới cơ chế, chính sách việc Nhà nước đặt hàng, tổ chức sản xuất, công diễn, trình chiếu, triển lãm. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực văn hóa. Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế để trao đổi kinh nghiệm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế đồng bộ với văn hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới./.

------------------------

(1), (2) Xem: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 73, 74
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 72
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 73
(5) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 39
(6) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 221 - 222
(7) Xem Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 262 - 264
(8) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 26 - 27
(9) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 27
(10) Xem: “Tạo sự đột phá để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa”, Cổng Thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ngày 26-11-2024
(11) Xem: Xuân Trường: “2024 - Năm khởi sắc của du lịch Việt Nam”, Cổng Thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ngày 1-1-2025
(12) Xem: Bảo Ngọc: “Năm 2024 tăng trưởng hơn 7%, quy mô GDP nền kinh tế khoảng 476 tỉ USD”, Báo Tuổi trẻ online, ngày 6-1-2025

(13) Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979 (12-2021), tr. 8
(14) Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tlđd, tr. 8 - 9