Bốn mươi lăm năm thực hiện Di chúc của Bác Hồ: “Tổng kết lịch sử, định hướng tương lai”
TCCSĐT - Di chúc được Bác viết vào dịp sinh nhật của mình và được hoàn thiện trong 5 năm, khi Người còn rất minh mẫn, sáng suốt. Năm năm Bác trăn trở, suy nghĩ kỹ càng, viết đi, viết lại, sửa chữa, bổ sung… Do vậy, bản Di chúc tuy ngắn gọn, súc tích, nhưng hầu như đã chứa đựng toàn vẹn: không thiếu việc gì, không sót một ai. Bốn mươi lăm năm ngày Bác đi xa, xin được đối chiếu với những lời Bác đã dặn, kiểm điểm xem Đảng và dân tộc ta đã thực hiện được những gì…
Đảng làm theo lời Bác dạy
Là người sáng lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời chăm lo cho việc xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng đủ điều kiện và sức mạnh lãnh đạo toàn dân tộc. Điều đầu tiên Bác nhắc tới trong bản thảo năm 1965, bút tích sửa năm 1966, viết bổ sung năm 1968 là nói về Đảng. Người đánh giá cao vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng trong lịch sử và hiện tại, đồng thời chỉ rõ: điều làm nên sức mạnh của Đảng là sự đoàn kết, phải giữ gìn sự đoàn kết như giữ con ngươi của mắt mình. Bác nhắc các nguyên tắc sống còn của xây dựng Đảng là: tập trung dân chủ, là tự phê bình và phê bình. Lô-gíc của Người rất rõ ràng: muốn lãnh đạo toàn dân tộc, Đảng phải đoàn kết. Đoàn kết phải trên cơ sở dân chủ, tập trung, tự phê bình và phê bình. Điều đáng nói, trong phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đặt mệnh đề tự phê lên trước và Người nhiều lần dặn chúng ta cách phê bình. Từ năm 1947, khi viết “Sửa đổi lối làm việc”, Người dặn khi phê bình nhớ phê bình việc chứ đừng phê bình người. Năm 1966, Người chỉ bổ sung một câu vào Di chúc: phê bình phải trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Với sứ mệnh của một đảng cầm quyền, điều Bác thường lo lắng là sự tha hóa của người có quyền lực trong tay. Vì thế, Người luôn nhấn mạnh tới vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Trong bản Di chúc bổ sung năm 1968, Người dặn ngay sau khi giành thắng lợi: việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng. Trước đây, Lê-nin đã từng cảnh báo bệnh kiêu ngạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau khi có chính quyền chưa đầy 1 tháng, ngày 17-10-1945 cũng đã viết thư lên án các “quan cách mạng”. Cả cuộc đời Bác nêu gương đạo đức, thực hành đạo đức và yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải thực hành đạo đức. Bài viết trong loạt bài cuối cùng của Người là: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Trong Di chúc, nhiều lần Người dặn phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư…, phải làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân.
Để kế tục sự nghiệp của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải chú ý bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, thông qua việc chăm sóc, đào tạo thế hệ trẻ có đạo đức, có năng lực “vừa hồng, vừa chuyên”.
Có được thành quả hôm nay, toàn dân ghi nhớ công ơn của Đảng và điều đó chứng tỏ Đảng đã làm theo lời dạy của Bác Hồ. Tuy vẫn còn “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, song tuyệt đại đa số đảng viên đã thực hiện tốt Điều lệ Đảng, giữ vững phẩm chất, khí tiết. Hiệu ứng tích cực của cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đang nhắc nhở mỗi người hãy làm tốt phận sự của mình, lấy hiệu quả công việc làm thước đo giá trị đạo đức.
Thống nhất Tổ quốc, quan tâm tới đời sống nhân dân
Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nghĩa vụ, trách nhiệm hàng đầu. Trong bản viết năm 1965, bản viết năm 1969, Người đều khẳng định quyết tâm to lớn, kiên quyết giải phóng miền Nam dù có phải gian khổ hy sinh nhiều của, nhiều người. Tháng 5-1982, người viết bài này có dịp đi công tác miền Nam với đồng chí Vũ Kỳ - Phó Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, nguyên thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một lần nói chuyện ở Phú Khánh (nay là Khánh Hòa), đồng chí Vũ Kỳ có kể rằng: Bác luôn đau đáu với việc giải phóng miền Nam. Bác từng viết: “nếu tôi không được tự mắt trông thấy thực hiện cuộc thắng lợi đó, thì tôi phải tự trách mình không làm tròn nhiệm vụ đối với đồng bào miền Nam”. Không phải ngẫu nhiên mà phần nói về giải phóng miền Nam trong bản thảo mấy năm đầu Bác để ở giữa Di chúc, nhưng đến bản cuối cùng viết ngày 10-5-1969, Bác đưa ngay thành câu mở đầu.
Tháng 01-1973, thực hiện Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, quân đội Mỹ đã làm lễ cuốn cờ rút khỏi Việt Nam. Hành động này của Mỹ ghi nhận thắng lợi đầu tiên của quân dân ta làm theo thơ chúc tết của Bác Hồ Xuân 1968: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Ngày 30-4-1975, khi quân giải phóng cắm cờ trên nóc Dinh Độc lập, đập tan chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chúng ta đã toàn thắng, non sông thu về một mối, thỏa lòng mong ước của Bác Hồ.
Quan tâm tới con người chiếm vị trí quan trọng trong chỉ đạo và điều hành đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1945, Người đã nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”(1).
Lúc sinh thời, Người chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ của dân, lo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, lo cho từ nơi cùng xóm vắng đến hải đảo xa xôi bi bô tiếng trẻ học bài. Những người tủi hèn nhất trong xã hội nhận được ở Người tình thương yêu nhiều nhất.
Trong Di chúc, Người nhắc đến tất thảy mọi người, từ bà con lao động, công nhân, nông dân, thanh niên, học sinh, trí thức… Người căn dặn, Đảng “phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Sau Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968, nhiều vấn đề hậu chiến được Bác đặc biệt quan tâm. Trong 6 trang viết thêm năm 1968, Người dành tới 4 trang căn dặn kỹ mọi việc cần làm sau chiến thắng. Đó là chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, quan tâm tới những cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, nhất là phụ nữ, lựa chọn những người trẻ tuổi đã kinh qua chiến đấu cho đi học tập, đào tạo. Đặc biệt, cần quan tâm tới nông dân bởi lẽ họ sẽ lại là giai cấp thiệt thòi nhất sau chiến thắng. Điều thể hiện tính nhân văn sâu sắc tuyệt vời trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở chỗ Người không chỉ quan tâm tới “phe ta”, mà trong ý thức của Người, mọi con dân đất Việt đều cần được đối xử bình đẳng. Người dặn “Đối với nạn nhân của chế độ cũ… thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”.
Bốn mươi năm sau giải phóng, “điều đầu tiên là công việc đối với con người” đã được Đảng ta thực hành từng bước có hiệu quả. Năm 1986 Đảng đã tiến hành đổi mới toàn diện. Thành tựu gần 30 năm đổi mới đã biến một nước thuộc diện đói nghèo trở thành một nước bước vào ngưỡng cửa của một xã hội phát triển. Độc lập được giữ vững, chủ quyền được vẹn toàn, con người năng động hơn, kinh tế tăng trưởng tốt hơn, cuộc sống người dân và an sinh xã hội tốt hơn, người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí… Tinh thần hòa hợp dân tộc, xóa bỏ mặc cảm với những người từng cộng tác với chính quyền cũ… được các cấp chính quyền và nhân dân các tỉnh phía Nam thực hiện đem lại cuộc sống bình yên cho tất cả mọi người. Các mục tiêu “điện, đường, trường, trạm” đã làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi hẳn.
Đi lên chủ nghĩa xã hội, thiết thực bảo vệ phong trào cộng sản quốc tế
Có người đọc câu kết của Di chúc cho rằng, Bác không dặn đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực ra trong các bản viết năm 1965, 1968 và 1969, Bác đều nhắc tới cụm từ chủ nghĩa xã hội một cách trân trọng và phù hợp văn cảnh. Còn câu kết Di chúc ai bảo không có chủ nghĩa xã hội? Cái tài của Bác là “ý tại, ngôn ngoại”. Đúng là câu kết không có chữ chủ nghĩa xã hội, nhưng nội hàm của: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới - đó chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, là bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Bốn mươi lăm năm sau ngày Bác mất, chúng ta vẫn đang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vẫn trong quá trình đổi mới để biến nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Từ năm 1957, nói chuyện ở Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Bác đã dặn đi lên chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lâu dài, không được nóng vội vì “chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”(2). Chúng ta vẫn trong chặng đường đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, song những gì Đảng đã và đang mang lại cho dân theo chiều hướng một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn, đó chính là chủ nghĩa xã hội, bởi với Người, chủ nghĩa xã hội, rất giản dị và thực tế: “Chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để được ăn no, mặc ấm, và có nhà ở sạch sẽ”(3).
Có lẽ điều day dứt, bất an duy nhất của Bác trong Di chúc là khi nói về phong trào cộng sản quốc tế. Là người từng tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam, người chịu trách nhiệm tổ chức phong trào cách mạng ở Đông Nam Á, là “người cộng sản già” có uy tín trong Quốc tế Cộng sản, người từng được Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Ni-ki-ta Khơ-rút-xốp đánh giá là vị “thánh cộng sản”…, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh “đau lòng về sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em”. Tuân theo lời dạy của Bác, Đảng ta làm hết sức mình, có trách nhiệm với phong trào cộng sản thế giới, với anh em, bè bạn. Chỉ riêng việc Đảng ta kiên trì Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đổi mới thắng lợi ở Việt Nam, đã là hành động thiết thực bảo vệ phong trào cộng sản quốc tế. Lịch sử có lúc thăng trầm, nhưng xu hướng dân chủ, hòa bình và tiến bộ vẫn là dòng chủ lưu của xã hội hôm nay.
Về việc riêng, có người đã cẩn thận đếm từng chữ trong mục “về việc riêng” Bác viết ở bản Di chúc năm 1969. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay cố ý: vừa đúng 79 chữ. Có thể Bác đã tiên lượng được sự ra đi của mình đang ngày một đến gần (năm 1965, Bác viết: Ai đoán biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy năm, mấy tháng nữa? Năm 1968, Bác viết: Nhưng không ai đoán biết được tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy tháng, mấy năm nữa? Và tới năm 1969, Bác viết: Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?. Như thế, Bác đã xác định thời điểm về với cõi vĩnh hằng khá chính xác: từ chỗ còn mấy năm, mấy tháng đến còn mấy tháng, mấy năm rồi không biết được bao lâu nữa?. Là người đã thừa hưởng ở truyền thống dân tộc và ở cha mẹ tính khiêm tốn, sự khí khái không muốn làm phiền người khác, trước sau Bác luôn dặn Đảng ta không được “tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Cẩn thận hơn, Bác còn dặn: “Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng”… Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam. Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó”.
Năm 1989, Đảng ta đã giải thích rõ việc xây dựng Lăng và giữ gìn thi hài Bác: “Thể theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa 3) thấy cần thiết phải giữ gìn lâu dài thi hài của Bác để sau này đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bạn bè quốc tế có điều kiện tới viếng Bác, thể hiện tình cảm sâu đậm đối với Bác. Chính vì lẽ đó mà chúng ta đã xin phép Bác về điểm này được làm khác với lời Bác dặn “(4).
Từ năm 1967, không báo cáo với Bác, Trung ương Đảng và quân đội đã chọn 3 bác sĩ giỏi, phẩm chất tốt đi Liên Xô học cách bảo quản thi hài. Ngày 02-9-1969 sau khi Hội đồng y khoa kết luận Bác đã qua đời, các chuyên gia Liên Xô và Việt Nam bắt tay ngay vào việc bảo quản thi hài Bác. Năm 1970, Ban phụ trách xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh được thành lập để gìn giữ Khu di tích Phủ Chủ tịch và xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh. Năm 1975, công trình Lăng Bác được khánh thành. Hôm nay, tại mảnh đất thiêng Ba Đình, Cụm Di tích lịch sử - văn hóa Ba Đình đang mở cửa phục vụ khách tham quan trong nước và quốc tế, với số lượng hằng năm lên tới 4-5 triệu lượt người. Nhìn những dòng người dài như vô tận sáng sáng xếp hàng vào Lăng viếng Bác, thăm Khu di tích Phủ Chủ tịch và Bảo tàng Hồ Chí Minh, mới thấy ý Đảng, lòng dân đã tạo nên sức mạnh thần kỳ.
Bốn mươi lăm năm, đọc lại Di chúc của Bác Hồ, càng vững tin vào con đường mà Bác và Đảng đã chọn. Bởi, lịch sử đã chứng minh, những điều Bác tiên liệu là vô cùng chính xác. Di chúc của Bác Hồ chính là “cẩm nang thần kỳ”, vừa tổng kết lịch sử, vừa định hướng tương lai./.
-----------------------------------------------
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 64
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđđ, t. 11, tr 92
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 13, tr 17
4. Thông báo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số vấn đề liên quan tới Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, số 151-TB/TƯ ngày 19-8-1989 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký.
Công bố Chỉ số cải cách hành chính 2013  (06/09/2014)
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nội vụ đẩy mạnh thanh tra công vụ  (06/09/2014)
Tín hiệu tích cực trong quan hệ thương mại Việt Nam - Nga  (06/09/2014)
Phát hành cuốn sách về Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  (06/09/2014)
Chuẩn bị họp Vòng 5 Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican  (06/09/2014)
- Độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế qua 40 năm đổi mới: Giải pháp thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII
- Độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế qua 40 năm đổi mới: Giải pháp thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII
- Nỗ lực thi công hoàn thành mục tiêu thông tuyến cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh đúng tiến độ
- Nỗ lực thi công hoàn thành mục tiêu thông tuyến cao tốc Đồng Đăng - Trà Lĩnh đúng tiến độ
- Lễ trao Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại lần thứ XI
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm