Dấu ấn chuyển đổi số ở Hà Giang

Nguyễn Thị Lan Phương
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
15:26, ngày 05-11-2023

TCCS - Hà Giang là tỉnh miền núi, biên cương cực Bắc của Tổ quốc, với điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên lại đứng thứ 2 về chuyển đổi số cấp tỉnh trong 2 năm 2020 và 2021. Đây là một trong những dấu ấn nổi bật của tỉnh Hà Giang trong nửa đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Dấu ấn nổi bật

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII, Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TU, ngày 29-10-2021, về chuyển đổi số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030; Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành các Kế hoạch số 293/KH-UBND, 294/-UBND, ngày 7-12-2021; Kế hoạch 301/KH-UBND, ngày 30-12-2022 về chuyển đổi số năm 2023; đồng thời kiện toàn Ban Chỉ đạo, Ban điều hành cấp tỉnh, huyện; ban chỉ đạo chuyển đổi số cấp xã và tổ công nghệ số cộng đồng cấp thôn. Qua nửa nhiệm kỳ triển khai thực hiện, công tác ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Hà Giang phát triển sâu rộng, thực chất, trên cả 3 trụ cột: Chính quyền số, kinh tế số, xã hội số.

Người dân tìm hiểu các sản phẩm tiêu biểu của tỉnh Hà Giang trên sàn giao dịch thương mại điện tử_Nguồn: baohagiang.vn

Giai đoạn trước nhiệm kỳ, tỉnh tập trung vào các ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước, xây dựng chính quyền điện tử. Đến đầu nhiệm kỳ 2020 - 2025, tỉnh thúc đẩy chuyển đổi số ở hầu hết các ngành, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Theo đó, tỉnh triển khai mạng truyền số liệu chuyên dùng đến 100% các cơ quan Đảng và hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh, bảo đảm kết nối giữa Trung tâm dữ liệu của tỉnh với hệ thống mạng nội bộ của các cơ quan, đơn vị thống nhất, an toàn; bảo mật thông tin và được kiểm soát bởi hệ thống giám sát tốc độ, tình trạng nối, lưu lượng, đáp ứng nhu cầu hạ tầng triển khai các ứng dụng dùng chung trên địa bàn tỉnh. Chuyển đổi giao thức kết nối cho hệ thống Cổng thông tin điện tử và Cổng dịch vụ công trực tuyến của tỉnh. Triển khai nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu tỉnh (LGSP) để kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của tỉnh và của các bộ, ngành thông qua nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP).

Đến nay, toàn tỉnh Hà Giang đã kết nối 58/81 hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành như: Cơ sở dữ liệu về giá; phần mềm quản lý thông tin đối ngoại; phần mềm công chứng, chứng thực và thông tin ngăn chặn; Cổng dữ liệu dùng chung của tỉnh; phần mềm quản lý hộ chính sách và hộ nghèo; hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc, mã vùng trồng, truy xuất sản phẩm trong nền kinh tế tuần hoàn gắn với thương mại điện tử; cổng thông tin và bản đồ về du lịch; hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về văn hóa; triển khai camera giám sát tập trung đảm bảo an toàn giao thông và an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh... Từ đó, giúp hoạch định, xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững, phù hợp với tình hình thực tế, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Thúc đẩy kinh tế số, các ngành, địa phương tập trung triển khai mô hình chợ 4.0 về các dịch vụ thanh toán trực tuyến không dùng tiền mặt tại khu vực chợ trung tâm các huyện, thành phố. Triển khai một số mô hình chuyển đổi số như thu phí, vé chợ các hộ kinh doanh, doanh nghiệp thông qua tài khoản ngân hàng; in mã QR thanh toán tại các gian hàng tiểu thương và hỗ trợ cài đặt tài khoản ngân hàng phục vụ giao dịch điện tử. Đến nay, 85% số trường học, cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh triển khai thanh toán học phí trực tuyến, không dùng tiền mặt; thí điểm không dùng tiền mặt với tổng số 946/1.097 đối tượng hưởng chính sách an sinh xã hội, đạt 86,2%. Có 100% số doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử; 55,5% dân số trên 15 tuổi trở lên có tài khoản giao dịch ngân hàng; đăng ký tài khoản các hộ sản xuất, hợp tác xã trên sàn thương mại điện tử, đưa 100% sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, sản phẩm OCOP của các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất lên sàn thương mại điện tử. Tỉnh phát triển mạnh mẽ hạ tầng số, đặc biệt là hạ tầng viễn thông mạng di động 3G, 4G, phát triển hạ tầng mạng di động 5G. Toàn tỉnh có 2.833 trạm thu phát sóng (BTS) trong đó 734 trạm 2G, 1.010 trạm 3G, 1.086 trạm 4G, 3 trạm 5G. Tối ưu mạng lưới, mở rộng vùng phủ sóng di động được 118 thôn/154 thôn trắng sóng. Đổi mới truyền thông theo hướng chuyển đổi số với nhiều hình thức phong phú; thiết lập, duy trì, chỉ đạo hoạt động hiệu quả các phương thức truyền thông hiện đại, đẩy mạnh truyền thông chính sách, góp phần đấu tranh, phản bác thông tin xấu độc, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo niềm tin và sự đồng thuận xã hội. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực du lịch như quét mã QR quảng bá du lịch, giới thiệu sơ đồ các hộ trong làng văn hóa du lịch cộng đồng; xây dựng hình ảnh, quảng bá danh lam thắng cảnh, các điểm du lịch trên các trang thông tin điện tử, trạng mạng xã hội.

Có thể nói, từ việc chuyển đổi số được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng đã làm thay đổi căn bản phương thức sống, làm việc, sản xuất của các tổ chức, cá nhân. Chính quyền, người dân, doanh nghiệp chuyển biến tích cực, nhiều hoạt động thường ngày được chuyển vào môi trường số, từng bước bắt kịp với xu thế phát triển chung, góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng biên cương cực Bắc.

Tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy chuyển đổi số thực chất, hiệu quả

Tuy nhiên, quá trình chuyển đối số của tỉnh còn một số hạn chế như: Nhận thức về chuyển đổi số ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương, cán bộ, công chức, viên chức có nhiều thay đổi, nhưng chưa thể hiện quyết tâm cao. Nhận thức của một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh về tầm quan trọng, lợi ích của chuyển đổi số còn yếu, mức độ sẵn sàng chuyển đổi số của các chủ doanh nghiệp chưa cao. Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin ở một số cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, thiếu nhân lực có trình độ, chuyên gia về chuyển đổi số, chưa phát huy được chức năng của Tổ công nghệ số cộng đồng. Nhìn vào thực tế, chuyển đổi số ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương, cán bộ, công chức, viên chức chưa thực sự quyết liệt, mức độ sẵn sàng chuyển đổi số của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh chưa cao. Tỷ lệ người dân có điện thoại di động thấp, chưa có điều kiện tiếp cận thông tin. Cơ sở vật chất, trang thiết bị về công nghệ thông tin còn thiếu, lạc hậu.

Đến nay, tỉnh còn 36 thôn, bản chưa có sóng di động, có nhiều khu vực chất lượng phủ sóng thấp, chưa ổn định; nhiều thôn bản chưa có điện, khó khăn trong việc hoàn thành tiêu chí về hạ tầng số. Thiếu nhân lực về công nghệ thông tin ở hầu hết các cơ quan từ tỉnh đến xã. Thiếu một số quy định, cơ chế, chính sách về nhân lực để thúc đẩy chuyển đổi số. Chưa có quy định về tỷ lê chi ngân sách nhà nước tối thiểu hằng năm cho chuyển đổi số. Các quy định về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin chưa thực sự rõ ràng, đầy đủ. Một số hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành được giao kinh phí thực hiện, nhưng triển khai còn chậm, chưa đưa vào sử dụng. Kết cấu hạ tầng, trang thiết bị của cơ quan, đơn vị chưa đồng đều, ảnh hưởng đến việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của tỉnh được triển khai đồng bộ, thống nhất tòa tỉnh nhưng quá trình sử dụng còn bất cập, như độ ổn định chưa cao, tốc độ truy cập chậm, phát sinh lỗi, tỷ lệ đồng bộ trạng thái hồ sơ với Cổng dịch vụ công quốc gia còn thấp… Việc xây dựng nền tảng chính quyền điện tử chậm hoàn thiện; một số ngành, lĩnh vực chưa chủ động tham gia chuyển đổi số; việc kết nối, chia sẻ tích hợp dữ liệu giữa các cơ quan còn hạn chế; số lượng hồ sơ trực tuyến còn thấp; quản lý thông tin trên không gian mạng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh.

Tháo gỡ khó khăn để thúc đẩy chuyển đổi số, tỉnh đang tập trung rà soát các kế hoạch, chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện hiệu quả việc gắn kết, bổ sung nhiệm vụ chuyển đổi số vào các nghị quyết, chiến lược, chương trình hành động, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển vào kinh tế - xã hội của các cấp, ngành; lựa chọn và triển khai mô hình chuyển đổi số phù hợp, hiệu quả, lấy người dân làm trung tâm. Ưu tiên nguồn lực chuyển đổi số các ngành, lĩnh vực để thực hiện 5 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá theo Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII. Đẩy mạnh chuyển đổi số báo chí; phổ cập kỹ năng chuyển đổi số thông qua hoạt động Tổ công nghệ số cộng đồng. Triển khai hiệu quả nội dung chuyển đổi số theo thỏa thuận với các Tập đoàn FPT, VNPT, Viettel bảo đảm tiến độ, hiệu quả và chất lượng. Phấn đấu hoàn thành phủ sóng di động đến 100% các thôn, 75% số hộ dân có đường truyền internet và 85% người dân có điện thoại thông minh, hỗ trợ người dân tham gia các nền tảng số, đáp ứng nhu cầu người dân, doanh nghiệp.

Để tiếp tục phát huy những thành quả đạt được và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XVII, Hà Giang xác định, chuyển đổi số là giải pháp đột phá, là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức, doanh nghiệp và người dân nhằm thúc đấy phát triến kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu phát triển của tỉnh. Trong đó, tập trung thúc đẩy thực hiện xây dựng chính quyền số để tạo đà và định hướng, dẫn dắt, quản lý, hỗ trợ kinh tế số và xã hội số phát triển. Chuyển đổi số gắn với phát triển đô thị thông minh và cải cách hành chính, đặt người dân, doanh nghiệp vào vị trí trung tâm, nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo của các cấp ủy đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp, thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh và công bằng xã hội. Chuyển đổi số tạo ra giá trị tăng trưởng mới trong phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng xã hội số dựa trên các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ quyền số quốc gia, góp phần đưa Hà Giang trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực trung du miền núi phía Bắc vào năm 2030. Nâng cao năng lực cạnh tranh, năng suất lao động của tỉnh, thay đổi mô hình khởi nghiệp kinh doanh trong chuỗi cung ứng toàn cầu hóa, góp phần đưa Hà Giang sớm thực hiện thắng lợi ba đột phá, năm nhiệm vụ trọng tâm Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đề ra thông qua thúc đẩy chuyển đổi số. Ưu tiên phát triển chính quyền số, trọng tâm là phát triển và quản lý dữ liệu số.

Để đạt mục tiêu đó, Hà Giang đã và đang đề ra nhiều giải pháp đồng bộ như: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu; đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về chuyển đối số. Xây dựng cơ chế, chính sách đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số; ưu tiên lực lượng cán bộ trẻ, đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên. Phát triển hạ tầng kỹ thuật và bảo đảm an toàn an ninh thông tin. Xây dựng và phát triển chính quyền số; kinh tế số; xã hội số. Tổ chức chuyển đổi số trong một số ngành, lĩnh vực ưu tiên và bảo đảm nguồn lực chuyển đổi số.

Ngày 11-1-2022, tỉnh Hà Giang quyết định lấy ngày 28-8 hăng năm là ngày chuyển đổi số tỉnh Hà Giang. Đây là dịp để các địa phương tổ chức đánh giá tổng kết những kết quả trong việc thực hiện chuyển đổi số, đồng thời biểu dương khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có thành tích tiêu biểu trong công tác thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số, góp phần thực hiện mục tiêu đưa Hà Giang trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực trung du miền núi phía Bắc vào năm 2030./.