Thực hiện mục tiêu “dân giàu” trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam (Kỳ II)
TCCS - Phấn đấu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước mang đến nhiều thời cơ đan xen với không ít thách thức. Để thực hiện mục tiêu “dân giàu” toàn diện, bền vững thành công, nhân dân có cuộc sống giàu có về vật chất, tinh thần, văn hóa, xã hội, môi trường, đạo đức..., cần có chiến lược toàn diện, tầm nhìn dài hạn và sự quyết tâm chính trị rất cao.
Kỳ 2: Vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, nhân dân có thu nhập cao, chung hưởng giàu có, hạnh phúc
Một số vấn đề đặt ra trong thực hiện mục tiêu “dân giàu” qua gần 40 năm đổi mới ở Việt Nam
Một là, dân giàu cần toàn diện. Có giai đoạn, chúng ta quá chú trọng giàu về vật chất, quan niệm đơn giản về dân giàu, dẫn đến phát triển nặng về tăng trưởng, coi nhẹ các yếu tố xã hội, văn hóa, môi trưởng…, nên phải trả giá đắt cho sự phát triển có phần thiên lệch đó. Do đó, quan điểm về dân giàu và thực hiện mục tiêu dân giàu cần toàn diện, bao quát các lĩnh vực, chú trọng giàu có cả về vật chất, tinh thần, trí tuệ, đạo đức, văn hóa, xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường sống, an ninh, an toàn con người, chất lượng dịch vụ công, bảo đảm quyền công dân, quyền con người, quyền sở hữu tài sản, sở hữu trí tuệ, quyền làm giàu hợp pháp, tinh thần và văn hóa thượng tôn pháp luật… Cần tránh tình trạng vật chất giàu có nhưng tinh thần nghèo nàn, văn hóa mai một, môi trường bị phá hủy, xã hội bất ổn và ngược lại. Không đợi giàu có vật chất rồi mới chăm lo các lĩnh vực khác, mà phải thực hiện song hành.
Hai là, ngày càng giàu có về chiều sâu, giàu có bền vững. Cần tránh làm giàu bất chấp bằng mọi giá; thu hẹp dần phương thức làm giàu thâm dụng lao động giản đơn và khai thác tài nguyên thô cạn kiệt. Việc làm giàu thu hẹp dần về chiều rộng, ngày càng coi trọng gia tăng giá trị từ đổi mới sáng tạo, khoa học - công nghệ, tinh chế nguyên nhiên liệu và tài nguyên ở mức độ sâu, từ đó làm gia tăng giá trị và chất lượng của nền kinh tế - xã hội. Làm giàu gắn với nuôi dưỡng, tái sinh, làm giàu tài nguyên, tránh khai thác tận diệt.
Ba là, dân giàu cần chung hưởng, bao trùm. Việc làm giàu của mỗi cá nhân cần hài hòa với sự giàu có của cả xã hội, làm giàu chính đáng cho bản thân gắn với trách nhiệm xây dựng cộng đồng lành mạnh, lan tỏa những giá trị tốt đẹp ra cộng đồng. Ràng buộc trách nhiệm bằng pháp luật, đạo đức và xây dựng văn hóa trách nhiệm doanh nhân, trách nhiệm công dân trong làm giàu.
Phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu có chung hưởng, bao trùm, mọi người cùng giàu; đấu tranh với những hiện tượng làm giàu chà đạp lên lợi ích chung, quyền lợi của đa số, được tinh vi che đậy, làm giàu có sự cấu kết, lợi ích nhóm, nhất là giữa quan chức và doanh nghiệp; tránh giãn cách phân hóa giàu nghèo, phân cực xã hội khi thực hiện dân giàu.
Bốn là, mỗi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia có những ưu, nhược điểm riêng, không có mẫu số chung cho tất thảy. Do đó, việc học tập kinh nghiệm các nước phải trên cơ sở tiếp thu những thành tựu chọn lọc, phù hợp với chuẩn mực quốc tế, song tương thích với điều kiện thực tiễn của nước ta. Đặc biệt, cần giữ vững định hướng và tính chất xã hội chủ nghĩa trong thực hiện mục tiêu “dân giàu”, không rập khuôn máy móc hay áp đặt chủ quan những mô hình chưa thực sự phù hợp.
Năm là, làm giàu dựa vào sức, người dân cần được hưởng nhiều hơn những thành quả đổi mới. Đánh giá đúng thực lực, tiềm năng để đặt ra các chỉ tiêu hợp lý, khả thi, tránh đặt các mục tiêu xa vời, “làm đẹp” báo cáo, không khả thi làm hao tổn nguồn lực, song cũng tránh tự ti, không có khát vọng vươn lên, thiếu quyết tâm thực hiện. Lấy người dân làm trung tâm trong thực hiện mục tiêu dân giàu, tạo điều kiện tốt nhất để người dân làm giàu, đồng thời giáo dục ý thức, văn hóa làm giàu chân chính. Người dân cần được hưởng tương xứng những thành quả của đối mới, sự phát triển đất nước.
Để Việt Nam ngày càng thịnh vượng, nhân dân chung hưởng giàu có, hạnh phúc
Thứ nhất, thực hiện mục tiêu “dân giàu” trên nền tảng tăng trưởng, phát triển kinh tế nhanh, đột phá, bền vững, gắn với tăng GDP/ người (GNI/người) tương xứng
Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, có những giai đoạn đột phá là điều kiện tiên quyết để Việt Nam sớm trở thành quốc gia có thu nhập cao, thực hiện mục tiêu “dân giàu” có chất lượng cao. Tất nhiên, sự tăng trưởng kinh tế trên phải dựa vào những cơ sở và điều kiện thực tế khả thi, tránh đề ra mục tiêu quá cao, huy động quá nhiều nguồn lực ngoài khả năng, có thể dẫn đến những bất ổn kinh tế.
tăng trưởng GDP vẫn có vai trò quyết định đến tăng trưởng GNI/người. Bài học của nhiều quốc gia cho thấy, trong giai đoạn là nước có thu nhập trung bình (dù thấp hoặc cao), thì đều cần giai đoạn bứt tốc phát triển cao GDP xấp xỉ trên dưới hai con số trong khoảng 15 năm, cùng với đó là cải thiện thu nhập bình quân đầu người qua các năm rất nhanh chóng nhờ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục qua nhiều năm, nếu không sẽ dễ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”.
Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nhìn chung vẫn là truyền thống và chịu rủi ro cao từ rào cản thuế quan của các nước. Cùng với đó là nguy cơ “bị bỏ lại phía sau” nếu quá trình bắt nhịp, đón bắt công nghệ không thành công, những rủi ro trở thành trung gian sản xuất và công nghệ.
Việt Nam có những lợi thế tích cực, đón nhận sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư, phát triển mạnh mẽ các công nghệ số, thúc đẩy phát triển công nghiệp xanh, năng lượng mới, năng lượng tái tạo. Việt Nam cũng có cơ hội tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Để đạt 2 mục tiêu lớn là trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, cần tăng cường nội lực, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, phát triển các mô hình kinh tế mới, nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Các mô hình kinh tế mới, các ngành kinh tế mới như: kinh tế số, kinh tế dữ liệu, xanh bền vững, các ngành kinh tế mới như kinh tế tầm thấp, kinh tế cận biên, kinh tế không gian vũ trụ, kinh tế tuần hoàn... cần tập trung để phát triển.
Chính phủ chọn các ngành công nghiệp làm động lực tăng trưởng kinh tế trong tương lai, thuộc ba lĩnh vực chính (công nghệ xanh, công nghiệp công nghệ cao và dịch vụ có giá trị gia tăng cao). Lựa chọn một số ngành có thế mạnh để ưu tiên phát triển trong từng thời kỳ để sử dụng hiệu quả nguồn lực và phát huy thế mạnh của quốc gia cũng như tận dụng tốt cơ hội phát triển. Cần phát huy hơn nữa vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, tạo môi trường cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển và coi khu vực tư nhân là động lực chủ yếu để phát triển đất nước; phát huy vai trò then chốt của khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy phong trào khởi nghiệp, với sự hỗ trợ của chính phủ thông qua các chính sách thông thoáng, khu vực tư nhân tiên phong, năng động phát triển, tiếp nhận các công nghệ hiện đại, tận dụng các cơ hội và phòng tránh các nguy cơ, phát triển nguồn nhân lực, sử dụng các phương pháp quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả hoạt động. Đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, quản trị hiện đại của doanh nghiệp nhà nước, nắm các ngành, lĩnh vực trọng yếu, nòng cốt của nền kinh tế. Nhà nước cũng cần chú trọng và ưu tiên phát triển một số doanh nghiệp lớn có sức cạnh tranh và chiếm được thị phần đáng kể trên thế giới; xây dựng một số tập đoàn kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân có thương hiệu, sức cạnh tranh và tầm ảnh hưởng khu vực và toàn cầu.
Xác lập mô hình tăng trưởng mới với trọng tâm là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; tạo ra sức sản xuất mới, phương thức, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự chủ sản xuất trong nước với việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đẩy mạnh liên kết vùng, mở rộng và cơ cấu lại không gian phát triển phù hợp với hệ thống hành chính mới. Phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của các khu vực kinh tế; trong đó phát triển kinh tế nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược, dẫn dắt nền kinh tế; phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế; kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình kinh tế khác giữ vai trò quan trọng.
Quan tâm đẩy mạnh tạo thêm việc làm, chất lượng việc làm, môi trường làm việc và tăng thu nhập của người dân, thiết kế lại cơ chế tính lương, tránh tình trạng lương không đủ nuôi bản thân và gia đình. Người lao động phải thực sự được thụ hưởng những thành quả phát triển đất nước, như lời của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Khí thế cách mạng dâng cao không đến từ lời nói, từ cảm nhận mà phải đến từ kết quả cụ thể, đến từ “mâm cơm của mỗi gia đình”, đến từ hành động “sữa để em thơ, lụa tặng già”. Nhân dân đang nhìn chúng ta bằng niềm tin và kỳ vọng mới. Trách nhiệm của Trung ương là biến kỳ vọng thành hiện thực, “biến chủ trương thành dòng chảy trong cuộc sống””(1).
Thứ hai, thực hiện mục tiêu “dân giàu” trên nền tảng chăm lo các vấn đề văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội
Cùng với việc nâng cao đời sống vật chất, cần ngày càng quan tâm nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa của người dân, bởi văn hóa chính là chăm lo phần tâm hồn, nơi nuôi dưỡng và phát huy các giá trị chân - thiện - mĩ, để dân giàu, mỗi người giàu có với đầy đủ ý nghĩa, hài hòa, cân bằng. Nếu chỉ xem nặng về vật chất, xem nhẹ văn hóa, tinh thần, sự giàu có sẽ thiên lệch, khuyết thiếu. Khi con người được chăm lo toàn diện cả vật chất lẫn tinh thần, xã hội mới phát triển hài hòa, bền vững.
Phát triển kinh tế hướng tới “dân giàu” phải dựa trên nền văn hóa tiến bộ, bởi văn hóa tạo ra hệ giá trị, chuẩn mực ứng xử và động lực tinh thần thúc đẩy con người lao động sáng tạo. Chăm lo văn hóa giúp củng cố sự công bằng, nhân ái, gắn kết cộng đồng, tạo môi trường xã hội ổn định để kinh tế phát triển bền vững. Theo đó, cần coi trọng việc bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm mọi tầng lớp nhân dân được tiếp cận dịch vụ văn hóa, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo về hưởng thụ tinh thần; nâng cấp thiết chế văn hóa, thể thao, giáo dục cộng đồng ở cả nông thôn và đô thị. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; nâng cao dân trí, trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, gắn đào tạo với thị trường lao động; hình thành tư duy đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp, coi đây là động lực tăng trưởng thu nhập; xây dựng ý thức pháp luật, kỷ luật lao động, văn hóa ứng xử - tạo xã hội ổn định, thuận lợi cho phát triển. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh: minh bạch, trách nhiệm xã hội, vì lợi ích cộng đồng. Khuyến khích tinh thần tiết kiệm, đầu tư cho học tập, phát triển tri thức, thay cho lối sống hưởng thụ, phô trương. Xây dựng văn hóa làm giàu cho cá nhân và có trách nhiệm với cộng đồng.
Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội bền vững; bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Đẩy mạnh xây dựng chính phủ số, xã hội số, đáp ứng yêu cầu kiến tạo phát triển và quản lý phát triển xã hội bền vững. Xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, lấy con người là trung tâm; ưu tiên các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế và đối tượng trong khu vực phi chính thức, “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2030 cơ bản không còn hộ nghèo, miễn viện phí toàn dân. Bảo đảm an ninh con người, an ninh xã hội, tạo dựng môi trường xã hội an toàn, lành mạnh. Phát huy tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong mục tiêu “dân giàu”, giải quyết ngay từ sớm, từ đầu các khía cạnh phát triển xã hội, đẩy mạnh các hình thức tái phân phối thu nhập, của cải đến các đối tượng thu nhập thấp, yếu thế, kéo gần hơn khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, các vùng, miền, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng bất bình đẳng, đặc quyền. Phát triển an sinh xã hội, giúp người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đầu tư vào giáo dục đào tạo, xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, nhân văn và phát huy yếu tố vốn trí tuệ trong quá trình phát triển, để người dân ngày càng giàu có về trí tuệ, tri thức. Xây dựng chiến lược quốc gia về giáo dục theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc tế”. Phát triển các phương thức đào tạo mở, các nền tảng dạy và học trực tuyến, phát triển học liệu số, bảo đảm điều kiện học tập suốt đời cho người dân. Ưu tiên phát triển một số đại học quốc gia, đại học vùng, đại học trọng điểm. Kịp thời phát hiện nhân tài trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài; có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.
Đột phá phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để người dân thích ứng với môi trường công dân số, biết tận dụng khoa học - công nghệ để trở thành phương tiện làm giàu, gia tăng giá trị. Nhà nước tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển khoa học - công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, chuẩn mực và thông lệ quốc tế; có cơ chế, chính sách vượt trội, phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo, nhất là trong nghiên cứu cơ bản; tháo gỡ dứt điểm các nút thắt, rào cản, trọng tâm là cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học - công nghệ. Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ chuyên gia, nhất là những chuyên gia giỏi, có nhiều cống hiến cho đất nước. Hình thành tầng lớp dân giàu từ phát kiến, làm chủ, ứng dụng khoa học - công nghệ để dẫn dắt, lan tỏa tinh thần làm giàu đến đông đảo các tầng lớp phía sau.
Đặc biệt, Nghị quyết về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 -2030, tầm nhìn đến năm 2050, của Chính phủ đề ra mục tiêu tổng quát là phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, tromg đó tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế số, và đưa Việt Nam lọt vào nhóm các quốc gia dẫn đầu về kinh tế số. Đây cũng là mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 57-NQ/TW của Chính phủ về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Kinh tế số sẽ trở thành không gian tạo nên sự phát triển vượt bậc của Việt Nam, là con đường ngắn nhất thực hiện mục tiêu “dân giàu” trong kỷ nguyên mới.
Điều này chính thức xác lập mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam trong kỷ nguyên mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính. Tuy nhiên, đây cũng là mục tiêu cao, mà việc hiện thực hóa còn nhiều thách thức. Muốn đạt được mục tiêu trên, cùng với việc đổi mới các ngành kinh tế truyền thống, cần thống nhất việc xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến hiện đại, trong đó, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud) phải trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Gia tăng đầu tư nguồn lực và năng lực phát minh và làm chủ nhiều hơn các công nghệ lõi. Tập trung phát triển hạ tầng số được xem là giải pháp đột phá để giúp nền kinh tế chuyển đổi số nhanh hơn, đáp ứng nhu cầu bùng nổ về kết nối và xử lý dữ liệu có vai trò quan trọng đối với Việt Nam.
Thứ ba, thực hiện mục tiêu “dân giàu” trên nền tảng tăng cường bảo vệ môi trường tự nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu; xây dựng môi trường xã hội an toàn, văn minh, hạnh phúc
Thực hiện mục tiêu dân giàu cần gắn chặt với bảo đảm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội an toàn, đầu tư tương xứng cho bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Hiện nay, môi trường ô nhiễm và môi trường xã hội còn thiếu an toàn vẫn là vấn đề nức nhối đặt ra, trong khi đầu tư nguồn lực cho vấn đề này của Việt Nam còn hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu” gắn với bảo đảm môi trường sống an toàn, hài hòa với tự nhiên, cần phải thực hiện các giải pháp toàn diện để có thể ngăn chặn được xu hướng gia tăng ô nhiễm, từng bước cải thiện chất lượng môi trường; nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu, ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học; thúc đẩy nền kinh tế cac-bon thấp, kinh tế tuần hoàn... Theo đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, trách nhiệm giám sát thực hiện, xây dựng cơ sở dữ liệu theo dõi các chỉ số hoạt động môi trường. Đặc biệt cần đề xuất các giải pháp cung cấp thông tin, số liệu chính thống cho các tổ chức quốc tế khi thực hiện tính toán và xếp hạng điểm số giữa các quốc gia về bộ chỉ số hoạt động môi trường. Tăng cường kiểm soát ô nhiễm không khí, đặc biệt trong các đô thị lớn và khu công nghiệp nặng; thúc đẩy phương tiện sạch hơn, giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Triển khai mạnh hơn các chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu, giảm phát thải, thích ứng với thiên tai và biến đổi khí hậu, bảo vệ vùng ven biển, đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng. Củng cố và mở rộng các chương trình bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ hệ sinh thái, giảm xói mòn, suy thoái đất, rừng, vùng biển. Nâng cao năng lực quản lý môi trường: giám sát, ứng dụng khoa học - công nghệ, sự minh bạch, trách nhiệm, sửa đổi pháp luật để thích ứng với các yêu cầu đánh giá môi trường quốc tế. Đầu tư vào kết cấu hạ tầng nước sạch và vệ sinh, quản lý rác thải, xử lý chất thải y tế, xử lý nước thải công nghiệp và đô thị. Huy động nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế, hợp tác công - tư, hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực của các cấp chính quyền địa phương. Xây dựng cơ sở dữ liệu trong quản lý, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng, phát triển và khai thác hiệu quả tài nguyên số.
Nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã hội, xây dựng môi trường xã hội an toàn, văn minh, hạnh phúc, chú trọng an ninh con người, an ninh xã hội. Nhân lên những giá trị chân - thiện - mĩ, lòng nhân ái, yêu thương, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc: “Lá lành đùm lá rách”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”… để “dân giàu’ thấm đẫm sự giàu có của lòng nhân ái, một xã hội hướng thiện, đáng sống, văn minh, tốt đẹp.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế khuyến khích, thúc đẩy và tạo điều kiện tốt nhất để người dân làm giàu chính đáng; mở rộng dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện mục tiêu “dân giàu”
Hoàn thiện thể chế pháp luật để tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho người dân làm giàu chính đáng, như pháp luật về đầu tư, kinh doanh, bảo đảm các quyền sở hữu tài sản… Tháo gỡ những điểm nghẽn về pháp lý đối với sản xuất, kinh doanh, loại bỏ tâm lý kỳ thị, phân biệt đối xử trong trao các cơ hội kinh doanh. Đẩy nhanh hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị giữ vai trò then chốt, định hướng; thể chế kinh tế là trọng tâm; thể chế trên các lĩnh vực khác là quan trọng. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, mở rộng không gian phát triển; thực hiện mô hình hệ thống chính trị 3 cấp, chính quyền địa phương 2 cấp để phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt nhất. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội, để thị trường thực sự có vai trò quyết định trong huy động và phân bổ nguồn lực.
Tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất mới; đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế; xác lập mô hình tăng trưởng mới lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, xây dựng xã hội số.
Đột phá mạnh mẽ về thể chế phát triển, khơi thông, giải phóng mọi nguồn lực; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý, quản trị phát triển giữa Trung ương và địa phương, phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương. Thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp. Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của hệ thống chính trị thực sự tiêu biểu, nhất là những người đứng đầu.
Để người dân “có điều kiện làm giàu”, đất nước ngày càng “giàu mạnh”, Quốc hội cần tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng: tạo môi trường kinh doanh thuận lợi - bảo đảm công bằng xã hội - khuyến khích sáng tạo - bảo vệ quyền lợi chính đáng, nhất là Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Lao động, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Tài nguyên, môi trường, năng lượng tái tạo…; bổ sung luật, quy định khuyến khích phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo… để bắt kịp xu thế toàn cầu, tạo động lực mới cho nền kinh tế.
Bảo đảm quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh để người dân mới yên tâm đầu tư, tích lũy, đội ngũ doanh nhân phát huy tối đa năng lực sáng tạo và cạnh tranh, là động lực trực tiếp để hình thành tầng lớp trung lưu ngày càng đông đảo, đóng góp vào sự thịnh vượng chung của đất nước. Mở rộng thực hành dân chủ, nhất là dân chủ kinh tế, dân chủ xã hội để quy tụ mọi hiến kế, trí tuệ, đóng góp và nguồn lực phục vụ sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Phát động phong trào “Toàn dân thi đua làm giàu vì một Việt Nam thịnh vượng, hạnh phúc” trên phạm vi cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài, từ đó dấy nên cảm hứng, niềm tin và động lực để làm giàu chính đáng trở thành nhu cầu thường trực và lan tỏa trong nhân dân.
Sau gần bốn thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong thực hiện mục tiêu “dân giàu” cả về nhận thức lý luận và kết quả thực hiện trong thực tiễn. Nhận thức lý luận về thực hiện mục tiêu “dân giàu” ngày càng đầy đủ, toàn diện và có chiều sâu, từ dân giàu thiên về vật chất, quan niệm còn đơn giản, đến quan niệm về dân giàu ngày càng coi trọng hơn các giá trị văn hóa, tinh thần, quản lý phát triển xã hội, môi trường, đạo đức, tri thức…, nhằm tạo dựng một đời sống giàu có và hài hòa hóa cả về vật chất, tinh thần. Những nhận thức lý luận trên là định hướng quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu dân giàu trong thực tiễn.
Những kết quả đó khẳng định đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ, đặc biệt trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn; đồng thời cho thấy nỗ lực, sáng tạo và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bên cạnh thành tựu, vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức: mức sống giữa các nhóm dân cư, các vùng miền còn chênh lệch; chất lượng tăng trưởng và năng suất lao động chưa cao; tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa còn tồn tại; khoảng cách giàu - nghèo có nguy cơ gia tăng; nhiều vấn đề môi trường, xã hội và quản trị kinh tế thị trường vẫn cần được xử lý…
Thực tế đó đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục phải giải quyết cả về lý luận và thực tiễn đối với việc thực hiện mục tiêu “dân giàu”, như việc đẩy nhanh tốc độ phát triển mang tính bứt phá với bảo đảm phát triển bền vững; giữa tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội, để quá trình phát triển không chỉ nâng cao thu nhập bình quân mà còn thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, hướng tới phân phối công bằng và bền vững; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, để nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh là xu thế tất yếu của thời đại, giúp Việt Nam tránh bẫy thu nhập trung bình và tạo động lực mới cho mục tiêu “dân giàu”; bảo đảm an sinh xã hội và phát triển bền vững để có hệ thống chính sách an sinh, y tế, giáo dục, bảo hiểm cần hoàn thiện hơn nữa để mọi người dân đều có cơ hội cải thiện đời sống; xây dựng văn hóa, đạo đức, lối sống lành mạnh, phát triển con người Việt Nam toàn diện, vừa có tri thức, kỹ năng, vừa có nhân cách, trách nhiệm xã hội, làm nền tảng tinh thần cho sự giàu có bền vững; ứng phó với biến động quốc tế và thách thức toàn cầu: Biến đổi khí hậu, cạnh tranh địa chính trị, xu thế bảo hộ thương mại, chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu… đặt ra yêu cầu Việt Nam phải chủ động, linh hoạt để vừa phát triển, vừa giữ vững độc lập, tự chủ.
Thực hiện mục tiêu “dân giàu” trong thời kỳ đổi mới là quá trình lâu dài, gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu này đến năm 2030 và tầm nhìn 2045, Việt Nam cần tiếp tục kiên định đường lối đổi mới, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, đồng thời chăm lo đến tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống toàn diện cho nhân dân, phát huy tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
-----------------------
(1) https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/trung-uong-tap-trung-thao-luan-quyet-dinh-cac-van-de-dac-biet-he-trong-then-chot-cua-then-chot-yeu-to-quyet-dinh-thanh-cong-cua-dai-hoi-xiv-cua-dang-v
Thực hiện mục tiêu “dân giàu” trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam  (05/01/2025)
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và những yêu cầu lịch sử  (03/01/2025)
Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam  (15/12/2024)
Xây dựng xã hội văn minh từ thực tiễn một số nước và kinh nghiệm tham chiếu cho Việt Nam  (30/11/2024)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Phụ nữ Việt Nam trong nền kinh tế số
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm