Quảng Ninh đẩy mạnh phát triển cảng biện và dịch vụ cảng biển
TCCS - Cùng với nhiệm vụ thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam và phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương trong phát triển triển kinh tế, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU, ngày 23-4-2019 “Về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Nghị quyết được xem là một bước đi quan trọng trong việc khai thác tiềm năng to lớn của biển, đưa Quảng Ninh trở thành một trung tâm kinh tế biển hàng đầu của cả nước.
Phát huy tiềm năng, lợi thế
Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã nêu rõ chủ trương lớn và khâu đột phá về phát triển kinh tế biển và ven biển và phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, trong đó có tỉnh Quảng Ninh: “Vùng biển và ven biển phía Bắc (Quảng Ninh - Ninh Bình): Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển; là cửa ngõ, động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gắn với cảng quốc tế Lạch Huyện; phát triển Quảng Ninh trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới”(1). Để thực hiện các mục tiêu trên và phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU, ngày 23-4-2019 “Về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” (gọi tắt là Nghị quyết số 15) đưa ra các mục tiêu và giải pháp, nhiệm vụ cụ thể.
Quảng Ninh có vị trí chiến lược quan trọng trong Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thuộc tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có đường biên giới trên bộ và trên biển, chiều dài bờ biển hơn 250 km, có 6 khu vực hàng hải bao gồm Vạn Gia, Hải Hà, Cô Tô, Cẩm Phả - Cửa Đối, Hòn Gia và Quảng Yên. Hệ thống cảng biển có nhiều cảng nước sâu có thể tiếp nhận tàu trọng tải lớn. Đồng thời có tiềm năng quỹ đất để phát triển các dịch vụ logistics hỗ trợ cảng và các dịch vụ du lịch biển đảo, chuyển tải hàng hóa… với lợi thế trên, tỉnh Quảng Ninh thuận lợi trong kết nối giao thông, giao thương với các tỉnh, thành phố trong vùng, cả nước và quốc tế thông qua tất cả các phương thức vận tải như đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt, đường biển, đường hàng không, đặc biệt trong đó là phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển.
Để triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 15, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh đã thành lập Ban Chỉ đạo phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy địa phương, đơn vị trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết. Cùng với đó, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo đề ra các nhiệm vụ cụ thể và phân công rõ trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức triển khai thực hiện theo lộ trình Nghị quyết số 15 đề ra.
Sau 5 năm triển khai thực hiện, Nghị quyết số 15 đã đạt được nhiều kết quả và hiệu quả tích cực và thực sự đi vào cuộc sống. Song song với tận dụng hiệu quả của các cảng biển hiện hữu, đã được đầu tư trước đó, như: Cảng Cái Lân, cảng Cửa Ông, cảng Hòn Gai, cảng Km6… để trung chuyển, xuất nhập khẩu hàng hóa, tỉnh Quảng Ninh còn xúc tiến, thu hút nhà đầu tư phát triển mạnh mẽ hệ thống các bến cảng phục vụ cho hoạt động du lịch, dịch vụ, thương mại. Điển hình như: Tập đoàn Tuần Châu đầu tư Cảng tàu khách quốc tế Tuần Châu; Tập đoàn Sun Group đầu tư Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long; Công ty TNHH MTV Du lịch Mai Quyền đầu tư Bến cảng cao cấp Ao Tiên. Những bến cảng hiện hữu này đã và đang tạo ra những giá trị tích cực trong việc luân chuyển hàng hóa, đưa đón các đoàn khách du lịch tham quan, nghỉ dưỡng trên Vịnh Hạ Long, đặc biệt là đã đón nhiều chuyến tàu biển quốc tế, mang theo các đoàn khách quốc tế đến Quảng Ninh tham quan, trải nghiệm.
Trong 5 năm qua, tổng sản lượng hàng hóa thông qua các bến cảng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đạt khoảng 627,7 triệu tấn, bình quân đạt 124,1 triệu tấn/năm; tổng lưu lượng hành khách vận tải biển (khách du lịch qua cảng) đạt khoảng 293.247 lượt khách; tổng lượng khách du lịch biển, đảo đạt 43,3 triệu lượt khách; tổng doanh thu dịch vụ cảng biển dự kiến đạt gần 26.000 tỷ đồng; tỷ trọng đóng góp của dịch vụ cảng biển vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh năm sau đều cao hơn năm trước (năm 2019 đạt khoảng 0,43%; năm 2020 đạt khoảng 0,43%; năm 2021 đạt khoảng 0,47%; năm 2022 đạt khoảng 0,49%; năm 2023 đạt khoảng 0,51%; năm 2024 đạt khoảng 0,58%; dự kiến năm 2025 đạt khoảng 0,69%)(2).
Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng hoạt động cảng biển và dịch vụ cảng biển tại Quảng Ninh còn một số hạn chế: Hệ thống cảng biển, hạ tầng giao thông kết nối chưa được đầu tư đồng bộ; chưa có chính sách đủ mạnh để thu hút nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển và dịch vụ logistics; công tác quản trị của các doanh nghiệp khai thác cảng biển và dịch vụ cảng biển còn yếu, năng lực cạnh tranh kém; nguồn nhân lực cho cảng biển và dịch vụ cảng biển còn thiếu, chất lượng chưa cao… Vì vậy, phát triển kinh tế biển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh; đặc biệt, trong mảng logistics, cảng biển, khai thác hải sản và phát triển du lịch biển đảo. Tỷ trọng đóng góp của các ngành kinh tế biển trong thu ngân sách và quy mô nền kinh tế của tỉnh chưa tương xứng với vị trí địa lý của một địa phương có 250 km chiều dài bờ biển, 9/13 đơn vị cấp huyện ở ven biển.
Tiếp tục đầu tư cho phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển
Tỉnh ủy Quảng Ninh xác định doanh thu dịch vụ cảng biển góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao giá trị gia tăng, tăng tỷ trọng đóng góp ngành dịch vụ trong GRDP của tỉnh; hình thành các trung tâm dịch vụ logistics chất lượng cao, đồng thời khai thác tiềm năng, phát triển đa dạng các loại dịch vụ có lợi thế; phát triển mạnh du lịch biển, trở thành trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của khu vực và thế giới thông qua đường biển. Hoàn thành và phát triển hệ thống cảng biển đồng bộ, hiện đại, thông minh có khả năng kế nối cao với các phương thức vận tải theo hướng hợp lý hóa, giảm thời gian, chi phí vận tải; phát triển dịch vụ cảng biển bảo đảm chất lượng phù hợp với xu thế hội nhập và dịch vụ cảng biển trở thành một trong lĩnh vực dịch vụ quan trọng của tỉnh. Tỉnh ủy đã đề ra mục tiêu cụ thể giai đoạn 2026-2030:
Đối với dịch vụ cảng biển: (1) Tổng doanh thu dịch vụ cảng biển đạt khoảng 47.500 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân đạt 18,5%; đến năm 2030 dịch vụ cảng biển đóng góp 3% - 3,5% trong GRDP của tỉnh. (2) Sản lượng hàng hóa thông qua cảng đạt khoảng 147,0 – 161,5 triệu tấn, lưu lượng hành khách vận tải biển đạt 400.000 – 500.000 lượt khách. (3) Tổng lượng khách du lịch biển, đảo đạt 28,5 triệu lượt, trong đó khách quốc tế đạt 12 triệu lượt khách.
Đối với dịch vụ cảng hành khách: Tiếp tục duy trì, phát triển các dịch vụ chất lượng cao tại Cảng khách quốc tế Hòn Gai, các cảng theo quy hoạch tại đảo Ngọc Vừng, Vân Đồn. Phát triển các dịch vụ giá trị gia tăng cao tại khu vực Cảng khách quốc tế Vân Đồn khi đưa vào hoạt động.
Đối với dịch vụ cảng hàng hóa: Tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các dịch vụ chủ lực, đồng thời phát triển đầy đủ các loại dịch vụ cảng biển.
Đối với hạ tầng cảng biển: (1) Đầu tư xây dựng cảng khách quốc tế Vân Đồn theo tiêu chuẩn cảng khách du lịch quốc tế và các bến du thuyền. (2) Xây dựng cảng Vạn Hoa thành cảng lưỡng dụng. (3) Tiếp tục đầu tư phát triển hoàn thiện du dịch vụ hậu cần sau cảng và logistics tập trung khu vực Quảng Yên, trọng điểm là khu Đầm nhà Mạc(3).
Các giải pháp trọng tâm
Để thực hiện hiệu quả các mục tiêu trên, Tỉnh ủy Quảng Ninh đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển. Trong đó, nâng cao chất lượng đội ngũ, năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò định hướng chiến lược, rà soát, hoàn thiện xây dựng các cơ chế chính sách nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực để phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính và dịch vụ công thông qua ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại.
Bám sát các quy hoạch của Trung ương đang triển khai như Quy hoạch không gian biển quốc gia, Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ… để kịp thời rà soát, cập nhật, điều chỉnh các quy hoạch tỉnh đang triển khai liên quan đến phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển; ưu tiên quỹ đất để phát triển dịch vụ logistics và dịch vụ hậu cần sau cảng.
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng và quản lý khai thác cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh bằng nhiều hình thức theo quy định của pháp luật. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc giải quyết, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh…
Hai là, đẩy mạnh phát triển dịch vụ cảng biển và dịch logistics. Trong đó, các dịch vụ tại các cảng khách quốc tế như Hòn Gai, Vân Đồn được đầu tư phát triển dịch vụ chất lượng cao mang tầm quốc tế phục vụ khách du lịch như tham quan, mua sắm, du thuyền tham quan Vịnh Hạ Long… Các dịch vụ tại các cảng hàng hóa được đầu tư dịch vụ lưu kho bãi và cho thuê kho bãi tại các khu vực có tiềm năng và lợi thế; phát triển dịch vụ dếp dỡ hàng hóa tại các khu neo đậu, chuyển tải. Phát triển có chọn lọc các dịch vụ hiện có, ưu tiên phát triển các dịch vụ mang lại giá trị gia tăng cao và thân thiện với môi trường. Xây dựng và triển khai đồng bộ cơ chế quản lý, điều hành cảng bằng công nghệ tiên tiến, thực hiện thủ tục “một cửa” hiện đại, liên thông của các cơ quan chuyên ngành tại chỗ. Nâng cao chất lượng hệ thống một cửa quốc gia, áp dụng dịch vụ công trực tuyến đối với Hải quan và Cảng vụ hàng hải. Áp dụng hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng biển (VASCM) cho 100% các khu bến, bến cảng có hoạt động xuất nhập khẩu.
Ba là, phát triển hạ tầng cảng biển và hạ tầng giao thông kết nối. Rà soát, sắp xếp lại hệ thống các bến cảng chueyen dùng (xi măng, than, vật liệu khác), kiên quyết chấm dứt hoạt động và di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Đầu tư xây dựng kho bãi, khu hậu cần logistics, cảng cạn (ICD), trong đó ưu tiên phát triển khu dịch vụ hậu cần sau cảng và logistics tại khu vực Quảng Yên với quy mô khoảng 3.000 - 5.000 ha bao gồm hệ thống kho bãi, hạ tầng kết nối các phương tiện vận tải…
Đối với hạ tầng giao thông kết nối, tỉnh Quảng Ninh xác định ưu tiên nguồn lực đầu tư hệ thống hạ tầng cảng biển như: Đường kết nối từ đường cao tốc Hạ Long - Vân Đồn tới cảng Cái Lân; tuyến đường kết nối từ đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái đến cảng Vạn Gia mở rộng; các tuyến đường trục chính khu công nghiệp cảng biển và các tuyến hạ tầng kết nối các bến, thủy nội địa…
Bốn là, huy động tối đa mọi nguồn lực để phát triển hệ thống cảng biển và dịch vụ cảng biển. Tỉnh Quảng Ninh tập trung huy động nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển các khu bến, bến cảng và khu dịch vụ hậu cần sau cảng và logistics; trong đó tập trung thu hút nguồn lực đầu tư từ khối kinh tế tư nhân cho phát triển cảng và dịch vụ cảng biển; các nguồn lực phục vụ công tác nạo vét luồng hàng hải… Vận dụng linh hoạt các chính sách hỗ trợ, ưu đãi hiện hành về tín dụng, thuế, giá, phí, lệ phí, chuyển giao công nghệ, nhượng quyền phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương; đồng thời ban hành chính sách ưu đãi doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cảng biển và dịch vụ cảng biển; hỗ trợ các chủ hàng, chủ tàu, chủ cảng trong nước và quốc tế mở các tuyến vận tải hàng hóa đi và đến cảng biển Quảng Ninh.
Năm là, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Tăng cường nguồn nhân lực đầu tư cho các cơ sở đào tạo nhân lực phục vụ trong lĩnh vực quản lý, quản trị, khai thác cảng biển, dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, các trường đào tạo, các hiệp hội, các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước trong việc đào tạo, nâng cao kiến thức về quản lý, khai thác cảng biển và dịch vụ cảng biển…
Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh hình thành chuỗi du lịch kết nối các khu vực tỉnh, thành phố có tiềm năng phát triển du lịch biển (Quảng Ninh - Huế - Đà Nẵng - Khánh Hòa - Thành phố Hồ Chí Minh - An Giang), tiến tới mở rộng kết nối với các tuyến điểm trong khu vực và trên thế giới…/.
----------------------------------
(1) Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”
(2) https://baoquangninh.vn/cang-bien-quang-ninh-vuon-ra-bien-lon-3354613.html
(3) Nghị quyết số 15-NQ/TU, ngày 23-4-2019 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh “Về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Một số giải pháp thúc đẩy đô thị hóa bền vững tại tỉnh Quảng Ninh  (02/10/2025)
Kinh nghiệm ứng dụng công nghệ số trong quản trị không gian số của một số quốc gia và bài học tham khảo cho tỉnh Quảng Ninh  (20/09/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Phụ nữ Việt Nam trong nền kinh tế số
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm