Phát triển thương mại biên giới đất liền: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra

PGS, TS CHU VĂN TUẤN - TS HOÀNG VĂN CHUNG
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
04:53, ngày 12-11-2025

TCCS - Thực hiện đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp duy trì, mở rộng, phát triển kinh tế - xã hội miền núi, đẩy mạnh quan hệ hợp tác, phát triển kinh tế cửa khẩu, góp phần phát triển thương mại biên giới đất liền với các nước láng giềng. Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển thương mại biên giới đất liền trong thời gian tới, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp.

Thực trạng phát triển thương mại biên giới đất liền

Về quy mô xuất, nhập khẩu

Tính đến hết năm 2024, trên toàn tuyến biên giới đất liền của Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia có 55 cặp cửa khẩu quốc tế và song phương (chính hoặc quốc gia), bao gồm 28 cặp cửa khẩu quốc tế, 27 cặp cửa khẩu song phương (cửa khẩu chính, quốc gia). Hoạt động xuất, nhập khẩu được thực hiện chủ yếu theo các hình thức: chính ngạch, tiểu ngạch, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh, chuyển khẩu.

Tính toán từ số liệu thống kê của hải quan các tỉnh biên giới của Việt Nam cho thấy: Trong giai đoạn 2020 - 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu trên 3 tuyến biên giới đất liền (Việt Nam - Trung Quốc; Việt Nam - Lào; Việt Nam - Cam-pu-chia) tăng với tốc độ trung bình 19,4% năm (kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng trung bình 17,4% năm, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng trung bình 20,7% năm).

Xét riêng từng tuyến biên giới nhận thấy, phía Bắc, trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc, giai đoạn 2020 - 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng với tốc độ 19,5% năm. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng trung bình 19,4% năm, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng trung bình 19,5% năm.

Cũng từ các số liệu thống kê các năm 2019 - 2024 của hải quan các tỉnh biên giới cho thấy: Tỷ trọng kim ngạch xuất, nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc so với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam với 3 nước Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia giai đoạn 2019 - 2024, năm thấp nhất (năm 2022) đạt 70,9%, năm cao nhất (năm 2020)
đạt 86,4%.

Bảng 1. Kim ngạch xuất, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc

Đơn vị: tỷ USD ( Nguồn: Thống kê hải quan các tỉnh biên giới của Việt Nam)

Nếu phân chia xuất khẩu và nhập khẩu thì tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc so với tổng kim ngạch xuất khẩu biên giới đất liền Việt Nam với 3 nước giai đoạn 2019 - 2024, năm thấp nhất (năm 2022) đạt 59,0%, năm cao nhất (năm 2024) đạt 84,5%. Còn tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc so với tổng kim ngạch nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam với 3 nước, năm thấp nhất (năm 2022) đạt 75,8%, năm cao nhất (năm 2020) đạt 92,8%.

Trên tuyến biên giới Việt Nam - Lào, giai đoạn 2020 - 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa qua cửa khẩu biên giới đất liền tăng trung bình 15,1% năm. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa qua cửa khẩu biên giới từ Việt Nam sang Lào tăng trung bình 3,5% năm. Chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Lào qua cửa khẩu biên giới tăng trung bình 24,7% năm.

Tỷ trọng kim ngạch xuất, nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Lào so với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam với 3 nước Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia giai đoạn 2019 - 2024, năm thấp nhất (năm 2021) đạt 2,6%, năm cao nhất (năm 2022) đạt 4,8%. Theo đó, nếu phân chia xuất khẩu và nhập khẩu, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Lào so với tổng kim ngạch xuất khẩu biên giới đất liền Việt Nam với 3 nước Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia giai đoạn 2019 - 2024, năm thấp nhất (năm 2023) đạt 2,4%, năm cao nhất (năm 2022) đạt 5,8%. Còn tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Lào so với tổng kim ngạch nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam với 3 nước, năm thấp nhất (năm 2020) đạt 2,0%, năm cao nhất (năm 2022) đạt 4,4 %.

Trên tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, giai đoạn 2020 - 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa qua biên giới đất liền Việt Nam - Cam-pu-chia tăng trung bình 19,6% mỗi năm. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa qua biên giới đất liền từ Việt Nam sang Cam-pu-chia tăng trung bình gần 10% mỗi năm. Chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa qua biên giới từ Cam-pu-chia về Việt Nam tăng trung bình 34,4% mỗi năm.

Tỷ trọng kim ngạch xuất, nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Cam-pu-chia so với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam với 3 nước Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia giai đoạn 2019 - 2024, năm thấp nhất (năm 2019) đạt 10,3%, năm cao nhất (năm 2022) đạt 24,3%.

Theo đó, nếu phân chia xuất khẩu và nhập khẩu thì tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Cam-pu-chia so với tổng kim ngạch xuất khẩu biên giới đất liền Việt Nam với 3 nước Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia giai đoạn 2019 - 2024, năm thấp nhất (năm 2024) đạt 12,8%, năm cao nhất (năm 2022) đạt 35,2%. Còn tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam - Cam-pu-chia so với tổng kim ngạch nhập khẩu biên giới đất liền Việt Nam với 3 nước, năm thấp nhất (năm 2020) đạt 5,2%, năm cao nhất (năm 2022) đạt 19,8%.

Về mặt hàng

Theo điều tra năm 2024 của Viện Chiến lược và Chính sách công thương (Bộ Công Thương), trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc, cơ cấu nhóm mặt hàng xuất khẩu bao gồm mặt hàng rau quả, trái cây tươi chiếm tỷ trọng bình quân 20,6%; cao-su và sản phẩm từ cao-su 12,3%; sắn lát, tinh bột sắn và sản phẩm từ sắn 10,2%; điện thoại, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 19,9%; thóc, gạo, đường 4,6%; nông, lâm, thủy sản 18,5%... Cơ cấu nhóm mặt hàng nhập khẩu: Nông, lâm, thủy sản, rau quả, trái cây tươi, hạt điều chiếm tỷ trọng bình quân 23,5%; điện tử, linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 14,6%; sắt thép các loại, kim loại thường khác 18,7%; phân bón các loại, than cốc, nguyên liệu lá thuốc lá 18,1%; dệt may, nguyên, phụ liệu dệt may, da giày khoảng 12,8%; chất dẻo, giấy và sản phẩm từ giấy khoảng 8,5%...

Chế biến cá tra phi lê xuất khẩu tại nhà máy của Tập đoàn Sao Mai, tỉnh Đồng Tháp_Ảnh: TTXVN

Trên tuyến biên giới Việt Nam - Lào, cơ cấu nhóm mặt hàng xuất khẩu: Nông, lâm, thủy sản, rau quả chiếm tỷ trọng 11,8%; xơ, sợi dệt, giày da, may mặc và vật tư 13,9%; xi-măng, sắt thép và sản phẩm từ sắt thép 19,9%; phân bón, chất dẻo nguyên liệu, thức ăn gia súc 18,7%; máy móc, phương tiện vận tải, thiết bị, phụ tùng 22,3%; gỗ, sản phẩm gỗ chiếm tỷ trọng khoảng 7,1%; xăng dầu và mặt hàng khác chiếm tỷ trọng khoảng 6,3%. Cơ cấu nhóm mặt hàng nhập khẩu: Nông, lâm, thủy sản, như cao-su, ngô 14,8%; gỗ và sản phẩm gỗ 21,9%; máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải 17,5%; khoáng sản, kim loại, quặng, than các loại 23,6%; phân bón các loại, nguyên, phụ liệu thuốc lá 16,4%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 5,8%.

Trên tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, cơ cấu nhóm mặt hàng xuất khẩu: Dệt may, da giầy và nguyên, phụ liệu chiếm tỷ trọng khoảng 18,7%; nông, lâm, thủy sản, bánh kẹo và sản phẩm từ ngũ cốc 16,3%; Sắt thép, kim loại thường khác, sản phẩm từ sắt thép 24,1%; giấy và các sản phẩm từ giấy 9,4%; phân bón các loại, sản phẩm từ chất dẻo 12,4%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng 19,1%. Cơ cấu nhóm mặt hàng nhập khẩu: Cao-su và sản phẩm từ cao-su 23,6%; hạt điều 21,7%; kim loại, sắt thép và phế liệu 19,7%; mặt hàng rau quả 9,5%; vải và nguyên phụ liệu 8,9%...

Về kết cấu hạ tầng thương mại

Báo cáo của sở công thương các tỉnh biên giới của Việt Nam cho thấy, trong tổng số 142 chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu, tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc có 107 chợ (chiếm 75,4%); tuyến biên giới Việt Nam - Lào có 24 chợ (chiếm tỷ trọng 16,9%), các tỉnh giáp Cam-pu-chia có 11 chợ (chiếm 7,7%). Những năm gần đây, một số chợ biên giới đã được nâng cấp và mở rộng, một số chợ bán kiên cố đã được kiên cố hóa. Thương nhân hoạt động tại chợ biên giới đến từ vùng biên, từ địa phương khác của Việt Nam.

Nhìn tổng thể, kết cấu hạ tầng của các khu kinh tế cửa khẩu đầu tư chưa đồng bộ. Kho bãi và trang thiết bị bốc dỡ hàng hóa, bảo quản lạnh... chưa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Nhiều nhà đầu tư phải đối mặt với không ít khó khăn, đặc biệt là giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực và loại hình dịch vụ gắn với khu kinh tế cửa khẩu, như logistics, đại lý hải quan, kiểm nghiệm, kiểm dịch, tư vấn pháp luật để tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu qua địa bàn nhưng chưa đạt được kỳ vọng, nguồn vốn ngân sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng còn nhiều khó khăn.

Thực tế, sự phát triển của thương mại biên giới đất liền đã góp phần gia tăng, thúc đẩy giao lưu hàng hóa giữa Việt Nam và các nước. Cơ cấu hàng hóa xuất, nhập khẩu góp phần bổ khuyết và đáp ứng nhu cầu của Việt Nam và các nước láng giềng cũng như dân cư biên giới. Bộ mặt thị trường vùng cao, biên giới có nhiều khởi sắc. Thương mại góp phần tạo thêm việc làm, thu nhập và sức mua dân cư tăng cao. Cơ cấu kinh tế - xã hội các tỉnh biên giới của Việt Nam từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, dần tạo sức hấp dẫn, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Trên bình diện chung, theo báo cáo tháng 8-2025 của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, những năm gần đây, thu nhập và đời sống của dân cư vùng biên giới, dân tộc thiểu số đã được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số giảm bình quân 3,4% (vượt mục tiêu 3%), thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số đạt 43,4 triệu đồng, tăng 3,1 lần so với năm 2020 (vượt mục tiêu tăng trên 2 lần).

Tuy nhiên, ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ suất hàng hóa của nền kinh tế còn nhỏ, hầu hết chưa có tích luỹ. Trên các dải núi cao, vùng biên giới, nhiều nơi sản xuất vẫn mang tính chất kinh tế tự nhiên. Mức thu nhập bình quân đầu người, khả năng chi tiêu cho nhu cầu tiêu dùng còn thấp và phần lớn còn mang tính tự cấp, tự túc. Nếu nhìn toàn cảnh và phân tích thực trạng thị trường ở khu vực vùng sâu, vùng xa nhận thấy biên giới vẫn là thị trường chưa phát triển với sức mua bình quân đầu người chưa cao. Thị trường đang có khuynh hướng bị khu vực hóa với một số vùng hết sức khó khăn, có nơi chưa có tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh hoạt động, mua bán, trao đổi, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Thị trường vùng cao - biên giới chưa phát huy hiệu quả tiềm năng.

Mặc dù có lợi thế về vị trí địa kinh tế, nhưng Việt Nam vẫn chưa khai thác triệt để yếu tố để tăng kim ngạch xuất khẩu; chưa tận dụng được cơ hội để khai thác, thâm nhập sâu trong bối cảnh các nước mở cửa thị trường, nhất là đối với mặt hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam mà một số nước láng giềng có nhu cầu lớn. Nhìn chung, lợi thế của hàng xuất khẩu Việt Nam vẫn tập trung vào ngành có hàm lượng kỹ thuật thấp và nông sản. Điều đáng lo ngại là nguồn lợi thu được một cách dễ dãi từ xuất khẩu tài nguyên và hàng thô, sơ chế, hàng hóa hàm lượng kỹ thuật thấp (như quần áo, giày dép...) có thể triệt tiêu động lực nâng cấp ngành, tham gia phân khúc cao hơn trong chuỗi sản xuất khu vực của quốc gia. 

Thuận lợi từ buôn bán tiểu ngạch đến từ việc doanh nghiệp được giảm thuế quan tiểu ngạch, tiết kiệm chi phí, bao bì. Yêu cầu về chất lượng hàng hóa, kiểm dịch không cao như dạng thức xuất, nhập khẩu chính ngạch... Tuy nhiên, yếu tố không chắc chắn trong buôn bán tiểu ngạch khiến thương mại biên giới có độ rủi ro cao, tác động mạnh  tới hoạt động thương mại biên giới chính ngạch.

Chính sách áp dụng cho khu kinh tế cửa khẩu vẫn chưa phát huy được tác động thực tiễn. Việc thu hút đầu tư vào địa bàn thuộc các tỉnh biên giới của Việt Nam đặc biệt là khu kinh tế cửa khẩu chưa tạo được sức hấp dẫn, lôi cuốn. Hoạt động thương mại biên giới luôn phải đối mặt với tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại.

Kiểm tra mẫu sầu riêng quả tươi trước khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc tại tỉnh Lạng Sơn_Ảnh: TTXVN

Một số vấn đề đặt ra về phát triển thương mại biên giới thời gian tới

Về việc phát triển thương mại biên giới đất liền tại tuyến biên giới

Dự báo quy mô thương mại sẽ tăng lên theo thời gian và tiềm lực kinh tế, yếu tố cần khai thác chính trong kinh tế đối ngoại là vị trí cửa ngõ trung chuyển giữa Việt Nam và với các nước láng giềng. Theo đó, một số vấn đề chung cần được cân nhắc:

Mô hình cảnh báo sớm

Một là, phát triển kết cấu hạ tầng thương mại biên giới. Tổng kết, đánh giá việc triển khai Chương trình phát triển hạ tầng thương mại biên giới Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Quyết định số 259/QĐ-TTg, ngày 25-2-2021 của Thủ tướng Chính phủ) cũng như việc triển khai Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 1012/QĐ-TTg, ngày 3-7-2015, của Thủ tướng Chính phủ). Ưu tiên, bố trí nguồn kinh phí ngân sách nhà nước để xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp một số loại hình kết cấu hạ tầng thương mại biên giới có vai trò quan trọng trong phát triển giao thương tại khu vực biên giới. Có cơ chế, chính sách để địa phương biên giới thu hút vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng từ nguồn kinh phí của doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức. Nghiên cứu khả năng các tỉnh biên giới hợp tác với các địa phương của các nước láng giềng về phát triển và kết nối kết cấu hạ tầng thương mại nhằm cụ thể hóa thỏa thuận khung cấp Chính phủ về kết nối và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại biên giới.

Hai là, phát trin dch vlogistics. Để phát triển dịch vụ logistics, cần tập trung phát triển dịch vụ logistics trọng điểm, bao gồm dịch vụ vận tải; dịch vụ giao nhận vận tải; dịch vụ 3PL (cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba hay logistics theo hợp đồng)/4PL (cung cấp dịch vụ logistics thứ tư hay logistics chuỗi phân phối, hay nhà cung cấp logistics chủ đạo - LPL). Đây là dịch vụ nhằm nâng cao khả năng tích hợp nội dung trong chuỗi cung ứng, kết hợp và luân chuyển hàng hóa trong chuỗi và quản trị tồn kho hiệu quả.

Ba , nghiên cứu xã hội hóa việc điều phối ngành hàng trên tinh thần Nhà nước kiến tạo, phục vụ, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, không can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh trái với nguyên tắc thị trường. Điều này cho phép thực thể được trao quyền điều phối chủ động  hơn trong định hướng sản xuất cũng như xuất khẩu. Đồng thời, triển khai nghiêm quy định về truy xuất nguồn gốc, kê khai vùng trồng, quy cách đóng gói (bao bì, nhãn mác) cũng như yêu cầu liên quan nhằm đáp ứng quy định, tiêu chuẩn đã thỏa thuận.

Bốn , nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm. Bối cảnh mới đặt ra vấn đề phải nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm với mục tiêu là báo động trước về khả năng hay thời điểm một nước hoặc một khu vực phải đối mặt với rào cản kỹ thuật. Theo đó, nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống cảnh báo sớm là cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp thông tin về chính sách và quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường nhập khẩu; cảnh báo ảnh hưởng tiêu cực từ quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước nhập khẩu đối với sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.

Năm là, nghiên cứu xây dựng thí điểm mô hình cửa khẩu thông minh, xem xét xây dựng mô hình ở một số cửa khẩu như với các cửa khẩu biên giới Việt Nam - Trung Quốc: Cặp cửa khẩu Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam) - Đông Hưng (Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc); cặp cửa khẩu Lào Cai (tỉnh Lào Cai, Việt Nam) - Hà Khẩu (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc). Đối với cửa khẩu biên giới Việt Nam - Lào: Cặp cửa khẩu Na Mèo (tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam) - Nậm Sôi (tỉnh Hủa Phăn, Lào); cặp cửa khẩu Lao Bảo (tỉnh Quảng Trị, Việt Nam) - Đen Sạ Vẳn (tỉnh Sạ Vẳn Nạ Khệt, Lào). Đối với cửa khẩu biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia: Cặp cửa khẩu Mộc Bài (tỉnh Tây Ninh, Việt Nam) - Bavet (tỉnh Svay Rieng, Cam-pu-chia); cặp cửa khẩu Tịnh Biên (tỉnh An Giang, Việt Nam) - Phnom-Đen (tỉnh Takeo, Cam-pu-chia).

Sáu là, nghiên cứu hình thành khu hợp tác kinh tế qua biên giới. Đối với cửa khẩu tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc: Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam) - Đông Hưng (Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc); Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Lào Cai (tỉnh Lào Cai, Việt Nam) - Hà Khẩu (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc). Ngoài ra, có thể nghiên cứu Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Đồng Đăng (tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam) - Bằng Tường (Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc). Đối với cửa khẩu biên giới Việt Nam - Lào: Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Tây Trang (tỉnh Điện Biên, Việt Nam) - Pang Hốc (tỉnh Phong Sa Ly, Lào); Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Na Mèo (tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam) - Nậm Sôi (tỉnh Hủa Phăn, Lào); Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Lao Bảo (tỉnh Quảng Trị, Việt Nam)- Đen Sạ Vẳn (tỉnh Sạ Vẳn Nạ Khệt, Lào). Đối với cửa khẩu biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia: Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Mộc Bài (tỉnh Tây Ninh, Việt Nam) - Bavet (tỉnh Svay Rieng, Cam-pu-chia); Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Tịnh Biên (tỉnh An Giang, Việt Nam) - Phnom-Đen (tỉnh Takeo, Cam-pu-chia); Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Hà Tiên (tỉnh An Giang, Việt Nam) - Prek Chak (tỉnh Campot, Cam-pu-chia).

Bảy là, quy hoạch phát triển chợ biên giới. Củng cố, cải tạo (bao gồm cả mở rộng, nâng cấp và di dời) chợ biên giới hiện có. Từng bước xây dựng mạng lưới chợ dân sinh ở xã biên giới gắn với cửa khẩu phụ, lối mở qua biên giới để hình thành điểm thị trường, bảo đảm thuận tiện và hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán, trao đổi, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của thương nhân và cư dân biên giới, hình thành thói quen mua bán, trao đổi, kinh doanh qua chợ, từ đó tăng cường mở rộng nhu cầu, kết nối thị trường biên giới với thị trường vùng và cả nước. Xây dựng mạng lưới chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu có cấu trúc hợp lý và phù hợp đặc điểm văn hóa, thói quen mua sắm của cư dân ở từng khu vực, có trang thiết bị đầy đủ, đáp ứng cho hoạt động chức năng của chợ.

Một số vấn đề cụ thể đặt ra cho việc phát triển thương mại biên giới đất liền tại tuyến biên giới

Thứ nhất, biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Thực tế cho thấy, trong vài ba năm tới, hàng hóa và dịch vụ Việt Nam rất khó thâm nhập vào thị trường khu vực phát triển của Trung Quốc do tính chất tương đồng và sức cạnh tranh hạn chế. Các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam cần tận dụng lợi thế về vị thế địa kinh tế để phát triển vận tải quá cảnh, chuyển khẩu, tạm nhập, tái xuất, du lịch, thu hút FDI... Cơ cấu lại theo hướng gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, nhất là một số loại nông, lâm sản, dược liệu sạch mà các địa phương có khả năng sản xuất và cung ứng. Trong đó, cần cân nhắc: 1- Tăng cường và kiện toàn trạm kiểm dịch tại cửa khẩu trọng điểm để giúp doanh nghiệp giải quyết nhanh, hiệu quả yêu cầu về kiểm dịch, đồng thời góp phần giảm bớt chi phí phát sinh không cần thiết cho doanh nghiệp xuất khẩu; 2- Tổ chức diễn đàn xúc tiến thương mại thường niên và luân phiên giữa các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc) và Việt Nam. Tìm giải pháp để giúp cơ quan chức năng tiếp cận gần hơn với doanh nghiệp, định hướng, hỗ trợ tốt hơn để gia tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu, từ đó xây dựng chuỗi cung ứng nông sản; 3- Nghiên cứu khả năng phối hợp với các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc) về việc thí điểm xây dựng khu chế biến gia súc công nghệ cao ở biên giới; mở thêm khu vực xuất, nhập khẩu rau củ quả ở cửa khẩu; 4- Doanh nghiệp xuất khẩu cần tích cực, chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng thông qua việc tham gia hội chợ, triển lãm (Hội chợ Thương mại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - Nam Ninh - Quảng Tây; Hội chợ nhập khẩu quốc tế Trung Quốc; Hội chợ Xuất, nhập khẩu Côn Minh tại thành phố Côn Minh, Vân Nam...) và hội thảo chuyên đề tổ chức tại Việt Nam hoặc Trung Quốc. Phối hợp với bên mua để phân loại, đóng gói, sử dụng bao bì, nhãn mác phù hợp với quy định nhập khẩu.

Thứ hai, biên giới Việt Nam - Lào: 1- Kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Liên Chính phủ và bộ phận thường trực Phân ban hợp tác Việt Nam - Lào. Hoàn chỉnh bộ máy Ban Chỉ đạo thương mại biên giới của mỗi nước và xây dựng cơ chế phân cấp linh hoạt giữa Trung ương với địa phương, đồng thời xây dựng cơ chế để kịp thời trao đổi thông tin, phối hợp trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thương mại biên giới. Nghiên cứu khả năng hình thành  Hiệp hội thương nhân biên giới; 2- Tổng kết và nhân rộng mô hình “một cửa - một điểm dừng”, tiến tới thực hiện cơ chế thông quan “một cửa - một điểm dừng” tại tất cả cặp cửa khẩu quốc tế trên tuyến biên giới Việt Nam - Lào, tạo điều kiện để thực hiện đồng bộ, thông suốt; 3- Nghiên cứu để triển khai kịp thời Đề án nghiên cứu chung về tăng cường vận tải hàng hóa hai chiều giữa Việt Nam và Lào; 4- Nghiên cứu tổ chức thêm hội chợ thương mại Việt Nam - Lào tại một số địa phương của Lào trong những năm tới; 5- Khuyến khích doanh nghiệp hai nước liên doanh, liên kết, hình thành chuỗi sản xuất cung ứng sản phẩm để tạo nguồn hàng trao đổi giữa hai nước cũng như xuất khẩu sang nước khác. Trước mắt, hình thành chuỗi sản xuất - cung ứng sản phẩm mà hai nước có lợi thế, như khai thác - chế biến - xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, sản xuất và xuất khẩu cao-su, cà-phê, hạt điều, sản phẩm dệt may...; 6- Xây dựng cổng thông tin điện tử Thương mại Việt Nam - Lào (song ngữ Việt - Lào) nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin thị trường Lào cho doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu. Đây còn là cầu nối trực tiếp giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhanh chóng được giải đáp vướng mắc khi tham gia xuất, nhập khẩu; 7- Nghiên cứu khả năng phát triển và kết nối kết cấu hạ tầng thương mại biên giới giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Lào.

Thứ ba, biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Các khu kinh tế cửa khẩu trên tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, đặc biệt là Tây Ninh có vị trí địa - kinh tế vô cùng thuận lợi, là “mắt xích” quan trọng trong tuyến đường hành lang kinh tế Đông - Tây của ASEAN, là điểm kết nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với nước bạn Cam-pu-chia. Theo đó, cần tập trung: 1- Cắt giảm thủ tục và điều kiện kinh doanh theo xu hướng chung và phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế; 2- Hài hòa hóa quy định chính sách cũng như thủ tục giữa hai nước và địa phương có chung biên giới nhằm phát huy tối đa chuỗi giá trị sản xuất, thương mại và dịch vụ qua biên giới; 3- Nghiên cứu khả năng đầu tư nâng cấp chất lượng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ liên quan đến thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, như hệ thống đường cao tốc, khu kiểm soát liên hợp, kho bãi, khu vực hậu cần và đô thị phức hợp, tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động xuất, nhập cảnh, xuất, nhập khẩu hàng hóa và phương tiện tại khu vực cửa khẩu; 4- Nghiên cứu khả năng tập trung nguồn lực, thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng, thúc đẩy sự hình thành trong tương lai một khu hợp tác kinh tế qua biên giới Mộc Bài - Ba-vét./.