TCCS - Là trung tâm công nghiệp hàng đầu của cả nước, vùng Đông Nam Bộ có nhiều đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, nhất là thu ngân sách, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, giải quyết việc làm... Tuy nhiên, một số hạn chế, bất cập về hạ tầng giao thông đang là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển kinh tế của vùng nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Để cơ cấu lại ngành công nghiệp theo chiều sâu, tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, đòi hỏi vùng cần có những giải pháp chiến lược, sát hợp để tháo gỡ.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính kiểm tra tiến độ thi công dự án sân bay Long Thành, tỉnh Đồng Nai_Nguồn: chinhphu.vn

Vùng Đông Nam Bộ - trung tâm công nghiệp hàng đầu của cả nước

Theo Quyết định số 370/QĐ-TTg, ngày 4-5-2024, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, vùng Đông Nam Bộ bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính của Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh và vùng biển ven bờ của Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vùng có địa hình rộng, đa dạng, vừa có đồng bằng, vừa có biển, đồi núi thuận lợi để phát triển kinh tế trên mọi địa hình, lĩnh vực, nhất là công nghiệp, hàng không, cảng biển và logistics, đóng vai trò là đầu mối giao thông liên kết các vùng trong nước và quốc tế. Phát huy lợi thế so sánh, vùng đã phát triển và trở thành trung tâm công nghiệp lớn, tham gia đóng góp không nhỏ vào tổng sản phẩm quốc nội của cả nước. Năm 2024, quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của vùng đạt 3.774.696 tỷ đồng, đứng đầu các vùng kinh tế của cả nước. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu với GRDP khoảng 1.778.000 tỷ đồng, chiếm hơn 45% tổng GRDP của vùng, khẳng định vai trò đầu tàu kinh tế, trung tâm tài chính và công nghiệp; với GRDP đạt 520.205 tỷ đồng, tỉnh Bình Dương tiếp tục phát huy lợi thế từ các khu công nghiệp hiện đại, hướng tới mục tiêu công nghiệp hóa thông qua các dự án công nghệ cao; tỉnh Đồng Nai có GRDP đạt 493.819 tỷ đồng, giữ vững vị trí là trung tâm công nghiệp chế biến, chế tạo và logistics quan trọng; duy trì vai trò chủ lực trong lĩnh vực dầu khí, hóa dầu và cảng biển, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ghi nhận tăng trưởng nhanh nhất trong vùng, GRDP đạt 417.306 tỷ đồng, tăng 11,72% so với năm 2023; các tỉnh Long An, Tây Ninh và Bình Phước lần lượt có GRDP đạt 168.108 tỷ đồng, 123.878 tỷ đồng và 115.357 tỷ đồng(1).

Trong tổng thể phát triển của vùng, ngành công nghiệp được xác định là một trong ba trụ cột quan trọng, giữ vai trò dẫn dắt và phát triển theo hướng tăng trưởng xanh để bảo đảm phát triển bền vững. Công nghiệp phát triển theo chiều sâu, tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, trong đó định hướng phát triển mạnh các ngành cơ khí chế tạo, hoá dầu, sản phẩm hạ nguồn ngành công nghiệp hoá dầu, chế biến sản phẩm từ dầu, hoá chất; ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ số. Phát triển công nghiệp xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo gắn với bảo vệ môi trường; chuyển dịch nhanh những lĩnh vực công nghiệp, sản xuất sử dụng nhiều tài nguyên, ít hàm lượng giá trị gia tăng sang sử dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường, có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Năm 2024, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 45 - 46% GRDP, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm đến 33% GRDP của vùng(2).

Vùng Đông Nam Bộ tiếp tục dẫn đầu cả nước về số dự án và tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến ngày 31-10-2024, toàn vùng thu hút được 21.174 dự án với tổng số vốn là 189,011 tỷ USD; trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu cả nước, chiếm 32,2% số dự án và gần 12% tổng số vốn đăng ký; số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động lớn nhất trong 6 vùng kinh tế, ước tăng 9,8% so cùng kỳ...(3).

Tứ giác kinh tế của vùng gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, góp phần gia tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm, giúp các doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Một số ngành công nghiệp chủ lực như khai thác dầu khí, sản xuất điện, phân bón, hóa chất, dược phẩm, thiết bị thông tin, điện tử, cơ khí chế tạo, công nghiệp, nguyên, vật liệu xây dựng… đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế toàn vùng; tạo việc làm, góp phần giải quyết tình trạng dư thừa lao động trên địa bàn và các vùng lân cận. Năm 2024, GRDP công nghiệp của tứ giác kinh tế chiếm đến 85% tổng GRDP khu vực công nghiệp của vùng. Nổi bật là Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, ngành công nghiệp của hai địa phương đóng góp vào tỷ trọng vùng Đông Nam Bộ lần lượt là 47,11% % và 13,78%(4).

Chất lượng tăng trưởng kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực, cơ cấu ngành, sản phẩm công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến và chế tạo, giảm tỷ trọng ngành công nghiệp khai khoáng; từ các ngành thâm dụng lao động sang ít thâm dụng lao động, có giá trị gia tăng cao. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển khá, giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,4%/năm và khoảng 9,8% trong năm 2022. Giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm trong tổng giá trị gia tăng của công nghiệp vùng được nâng từ 54,4% năm 2011 lên 81,1% năm 2020 và khoảng 77,7% năm 2022. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu GDRP vùng tăng từ 24% năm 2011 lên 27,6% năm 2015, 30,3% năm 2020 và 33% năm 2024. Các sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phần lớn hướng vào xuất khẩu với một số mặt hàng chiếm giá trị kim ngạch lớn, như hàng dệt may, giầy dép, linh kiện, thiết bị điện, điện tử, máy gia dụng, thực phẩm chế biến, hóa chất, sản phẩm gỗ... Các sản phẩm xuất khẩu như dệt may, điện tử và linh kiện, giày dép... đã chiếm lĩnh nhiều thị trường lớn, khó tính của thế giới và khẳng định năng lực cạnh tranh ngày càng cao, nổi bật là thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc. Đến tháng 6-2024, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của vùng đạt 115,7 tỷ USD, chiếm 31% kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh duy trì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cao nhất cả nước, đạt gần 44 tỷ USD(5), tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai đều ghi nhận kim ngạch xuất nhập khẩu cao với lần lượt là gần 27,8 tỷ USD(6) và 19,61 tỷ USD(7).

Hạ tầng giao thông kết nối nội vùng và liên vùng chưa tương xứng với tiềm năng phát triển

Giai đoạn 2021 - 2022, kinh tế vùng Đông Nam Bộ chỉ tăng trưởng 2,61%/năm. Tính chung giai đoạn 2011 - 2022, kinh tế của vùng tăng trưởng 5,50%/năm, thấp hơn trung bình cả nước là 6,05%/năm và thấp nhất trong 6 vùng kinh tế(8). Năm 2024, tốc độ phát triển GRDP vùng ước đạt 6,38%, thấp hơn mức bình quân chung cả nước là 7,09%, đứng thứ 4/6 vùng kinh tế(9). Rõ ràng, tuy có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển, nhưng thực tiễn phát triển cho thấy, vị thế trung tâm công nghiệp hàng đầu của cả nước có dấu hiệu giảm sút, mà một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này chính là điểm nghẽn hạ tầng giao thông. Cụ thể:

Thứ nhất, các tỉnh, thành phố trong vùng đều chú trọng đầu tư hạ tầng giao thông để thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển, nhưng nhìn chung, mới đầu tư theo hướng phát triển trong nội bộ từng tỉnh, thành phố; mạng lưới giao thông liên kết vùng, kết nối các tỉnh - thành trong vùng còn hạn chế… Đơn cử, tuyến đường Vành đai 4 - Thành phố Hồ Chí Minh là dự án trục giao thông chiến lược kết nối Thành phố Hồ Chí Minh, vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, thúc đẩy lưu thông hàng hóa từ các khu công nghiệp, khu đô thị đến cảng biển, Cảng hàng không quốc tế Long Thành và ngược lại, kết nối các đô thị, khu công nghiệp trong vùng, tạo liên kết vùng, phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; được quy hoạch từ năm 2011, đi qua 5 tỉnh, thành phố (Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An) với tổng chiều dài 159,31km, nhưng đến tháng 6-2023 tuyến đường mới được khởi công xây dựng(10).

Thứ hai, các tuyến đường bộ như quốc lộ 1A, quốc lộ 13, quốc lộ 51 do nhỏ hẹp, mật độ giao thông vận chuyển hàng hóa cao nên thường xuyên bị quá tải, gây ùn tắc giao thông nghiêm trọng, đặc biệt là giờ cao điểm. Tình trạng kẹt xe kéo dài không chỉ làm tăng chi phí vận tải mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Hiện nay, toàn vùng có hơn 86 khu công nghiệp, nhưng các khu công nghiệp lớn lại nằm rải rác khắp khu vực, kết nối giao thông không đồng bộ, gây khó khăn trong việc vận chuyển hàng hóa. Ngoài ra, các tuyến đường kết nối khu công nghiệp với cảng biển và sân bay cũng chưa được phát triển đồng bộ, dẫn đến chi phí vận tải cao và thời gian giao hàng chậm trễ, ảnh hưởng năng suất, hiệu quả kinh tế lâu dài(11).

Thứ ba, hệ thống cảng biển tại Đông Nam Bộ, dù phát triển nhưng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu lưu thông hàng hóa của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vùng Đông Nam Bộ nằm dọc hành lang đô thị - công nghiệp - dịch vụ bắt đầu từ cửa khẩu Mộc Bài (tỉnh Tây Ninh) - Thành phố Hồ Chí Minh - cảng Cái Mép - Thị Vải (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) với đầy đủ các phương thức vận tải gồm đường biển, đường hàng không và đường bộ, là trung tâm logistics lớn nhất cả nước, đồng thời là trung tâm dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, du lịch, giáo dục - đào tạo…, nhưng hiện thiếu các trung tâm logistics hiện đại gần cảng gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong lưu trữ và vận chuyển hàng hóa. Điển hình, Cảng Cát Lái (Thành phố Hồ Chí Minh) là cảng container lớn nhất Việt Nam nhưng hiện đang phải đối mặt với tình trạng quá tải(12).

Thứ tư, mặc dù tốc độ phát triển hạ tầng giao thông liên kết vùng đã được cải thiện nhưng vẫn chưa theo kịp xu hướng phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là kết nối giữa các cụm cảng với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hạ tầng giao thông khu vực Đông Nam Bộ chất lượng chưa thật sự tốt, dẫn đến kết nối nội vùng, liên vùng còn hạn chế. Đặc biệt, tuyến đường cao tốc huyết mạch Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây đưa vào khai thác từ năm 2015 đến nay một số đoạn đã xuống cấp. Vùng có 6 tuyến đường thủy nội địa với tổng chiều dài lên tới hơn 639km chủ yếu kết nối với đồng bằng sông Cửu Long, cơ bản được đầu tư và nâng cấp thường xuyên theo quy hoạch, nhiều bất cập về hệ thống cầu vượt sông được tập trung tháo gỡ, tuy nhiên đến nay nhiều điểm vượt sông trên các tuyến chính vẫn chưa bảo đảm cho việc lưu thông (cầu Bình Triệu, cầu Bình Phước).

Điểm nghẽn hệ thống giao thông của vùng xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ yếu là vướng mắc về cơ chế, chính sách nên chưa khơi thông được nguồn lực đầu tư, đầu tư chưa đồng bộ, chưa theo tiến độ quy hoạch. Cụ thể: (i) công tác lập quy hoạch thiếu tính liên kết, chưa đồng bộ giữa các chuyên ngành; (ii) kế hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giữa các địa phương trong vùng còn thiếu đồng bộ, chưa chú trọng đến kết nối vùng, liên vùng; (iii) thiếu các cơ chế, chính sách đột phá trong huy động nguồn lực và nguồn lực đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông còn hạn chế; (iv) việc kêu gọi đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) các dự án giao thông vận tải chưa thực sự hiệu quả.

Bốc, xếp hàng hóa tại cảng Sài Gòn_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Tháo gỡ điểm nghẽn hạ tầng giao thông đáp ứng yêu cầu phát triển, tạo động lực tăng trưởng cho vùng

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông…”(13) là một trong ba đột phá chiến lược. Đồng thời khẳng định một những những nhiệm vụ trọng tâm của vùng Đông Nam Bộ trong thời gian tới là “Phát triển chuỗi công nghiệp - đô thị Mộc Bài - Thành phố Hồ Chí Minh - cảng Cái Mép - Thị Vải gắn với hành lang kinh tế xuyên Á. Sắp xếp lại, nâng cấp hệ thống cảng biển, cảng hàng không, hạ tầng giao thông đô thị hiện đại; tập trung phát triển cảng biển Cái Mép - Thị Vải thực sự trở thành cảng chung chuyển quốc tế và các dịch vụ hậu cần cảng biển, dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải”(14). Để thực hiện tốt mục tiêu đề ra, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vùng Đông Nam Bộ cần được tiếp tục đẩy mạnh đầu tư, hoàn thiện, tạo hiệu quả cần thiết trong kết nối hạ tầng giao thông giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương lân cận, giảm bớt tình trạng quá tải, ùn tắc giao thông góp phần tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ, đồng thời duy trì và giữ vững vị trí đứng đầu cả nước về quy mô GRDP và thu ngân sách nhà nước, đặc biệt là vị thế trung tâm công nghiệp hàng đầu của cả nước. Điểm thuận lợi, trong chỉ đạo của Bộ Chính trị, dự kiến từ 1-7-2025, các đơn vị hành chính hình thành sau sắp xếp có thể sớm chính thức bắt đầu hoạt động theo kế hoạch chung của Trung ương(15). Việc sáp nhập các tỉnh, thành phố trong vùng Đông Nam Bộ không chỉ mở rộng không gian phát triển mà còn tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế, phân bổ và phối hợp hiệu quả các nguồn lực, từ đó thiết lập nền tảng ổn định lâu dài và tạo sức bật mới, đáp ứng các mục tiêu, tầm nhìn chiến lược và dài hạn trong kỷ nguyên phát triển mới. Thời gian tới, để tháo gỡ điểm nghẽn hạ tầng giao thông đáp ứng yêu cầu phát triển, tạo động lực tăng trưởng, các địa phương trong vùng cần nghiên cứu, triển khai đồng bộ, hiệu quả một số giải pháp sau:

Một là, đổi mới tư duy, tầm nhìn, phát huy tính năng động, sáng tạo của các địa phương trong quy hoạch, quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông trong vùng. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết nội vùng, liên vùng trong quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông để tạo không gian kinh tế thống nhất, khắc phục các điểm nghẽn, tăng năng lực cạnh tranh. Dành nguồn lực thích đáng phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ trong đó cần chú trọng xây dựng, kết nối các tuyến đường cao tốc, đường sắt.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền cho các địa phương trong vùng đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông do Trung ương quản lý trên địa bàn, đặc biệt là các công trình đường bộ, đường sắt, hàng không để phát huy tính chủ động của các địa phương trong huy động nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.

Ba là, đa dạng nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để huy động vốn tư nhân, nguồn vốn hợp pháp khác tham gia, đặc biệt là đầu tư theo phương thức PPP, trong đó ưu tiên các nguồn lực để đầu tư các công trình giao thông trọng điểm, có vai trò động lực, lan tỏa, liên kết vùng (công trình trên trục hướng tâm, vành đai, đường kết nối các cảng biển và hành lang vận tải quốc tế); Bố trí kịp thời, đầy đủ vốn đầu tư công trung hạn, đồng thời kết hợp hiệu quả nguồn vốn trung ương và địa phương

Bốn là, khẩn trương, quyết liệt hoàn thành, triển khai quy hoạch các địa phương trong vùng bảo đảm phù hợp, đồng bộ với quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch vùng, khai thác có hiệu quả quỹ đất sau khi các dự án kết cấu hạ tầng giao thông được đầu tư; kiện toàn bộ máy đủ năng lực để làm cơ quan chủ quản và chủ đầu tư các dự án đường bộ cao tốc; chỉ đạo quyết liệt công tác giải phóng mặt bằng và quản lý chặt chẽ hành lang an toàn giao thông.

Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động vận tải, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, logistics,  triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông; ứng dụng công nghệ trong tổ chức, điều hành giao thông đô thị, đẩy mạnh giải pháp chống ùn tắc giao thông nội đô, ùn tắc tại khu vực ra vào đầu mối vận tải lớn (cảng biển, cảng hàng không)./.

---------------------------

(1) “Bảng xếp hạng GRDP 63 tỉnh thành Việt Nam”, Cơ sở dữ liệu ngành Công thương tỉnh Đồng Nai, https://dlct.dongnai.gov.vn/bai-viet/bang-xep-hang-grdp-63-tinh-thanh-viet-nam-xep-hang-kinh-te-63-tinh-thanh-moi-nhat-2024-dtd-n58353
(2) Xem: Phạm Tiếp: “Thủ tướng: Đông Nam Bộ phấn đấu tăng trưởng 2 con số, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới”, Báo Tin tức, ngày 2-12-2024, https://baotintuc.vn/thoi-su/thu-tuong-dong-nam-bo-phan-dau-tang-truong-2-con-so-cung-ca-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi-20241202184652549.htm
(3) Xem: Phạm Tiếp: “Thủ tướng: Đông Nam Bộ phấn đấu tăng trưởng 2 con số, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới”, Báo Tin tức, ngày 2-12-2024, https://baotintuc.vn/thoi-su/thu-tuong-dong-nam-bo-phan-dau-tang-truong-2-con-so-cung-ca-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi-20241202184652549.htm
(4) Xem: Ngọc Tuấn: “Đông Nam Bộ: Động lực tăng trưởng từ các dự án trọng điểm”, Báo Đấu thầu, ngày 15-1-2025, https://baodauthau.vn/dong-nam-bo-dong-luc-tang-truong-tu-cac-du-an-trong-diem-post172824.html
(5) Xem: Thái Bình: “Địa phương đầu tiên đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 20 tỷ USD”, Tạp chí Hải quan, ngày 18-7-2024, https://haiquanonline.com.vn/dia-phuong-dau-tien-dat-kim-ngach-xuat-khau-hon-20-ty-usd-188046.html
(6) Đoan Trang: “Bình Dương: Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục khởi sắc”, Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương, ngày 22-7-2024, https://www.binhduong.gov.vn/tin-tuc/2024/07/272-binh-duong-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-6-thang-dau-nam-2024-tiep-tuc-khoi-sac
(7) Văn Dũng: “Đồng Nai: Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2024 đạt hơn 11 tỷ USD”, Báo điện tử Đại biểu nhân dân, ngày 30-7-2024, https://daibieunhandan.vn/dong-nai-kim-ngach-xuat-khau-6-thang-dau-nam-2024-dat-hon-11-ty-usd-post382540.html
(8) Xem: Báo cáo số 1042-BC/BCSĐCP, ngày 19-8-2022, của Ban Cán sự Đảng Chính phủ, “Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW, ngày 29-8-2005, của Bộ Chính trị khóa IX, về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 27-KL, ngày 2-8-2012, của Bộ Chính trị khóa XI, về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW”
(9) Xem: “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024”, Tổng cục Thống kê, ngày 6-1-2025, https://www.gso.gov.vn/bai-top/2025/01/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2024
(10) “Dự án giao thông ở Đông Nam Bộ: Khơi thông điểm nghẽn, tăng cường kết nối vùng”, Trang tin điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh”, ngày 16-2-2025, https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/du-an-giao-thong-o-dong-nam-bo-khoi-thong-diem-nghen-tang-cuong-ket-noi-vung-1491934115
(11), (13) Xem: Tiến Phòng: “Hạ tầng là 'bàn đạp' phát triển công nghiệp Đông Nam Bộ”, Tạp chí Công thương, ngày 28-1-2025, https://congthuong.vn/ha-tang-la-ban-dap-phat-trien-cong-nghiep-dong-nam-bo-371508.html
(12), (14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 338, 118 - 119

(15) Thu Giang: “Cấp tỉnh sau sắp xếp có thể sớm chính thức bắt đầu hoạt động từ 1-7-2025”, Báo Điện tử Chính phủ, ngày 11-6-2025, https://baochinhphu.vn/cap-tinh-sau-sap-xep-co-the-som-chinh-thuc-bat-dau-hoat-dong-tu-01-07-2025-102250611091400709.htm