Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

TRẦN QUANG PHƯƠNG
Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

07:00, ngày 20-05-2021

TCCS - Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cách mạng Việt Nam. Đó là quan điểm nhất quán, được Đảng ta khẳng định sâu sắc và rõ nét trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương thăm phòng truyền thống của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, nhân kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống và đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới của bệnh viện _Ảnh: TTXVN

Trong thời gian qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nắm bắt kịp thời những thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đoàn kết, chung sức, đồng lòng nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên các lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Chúng ta “Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang”(1). Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XII của Đảng xác định. Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; nỗ lực ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đòi đa nguyên, đa đảng, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch; ứng phó có hiệu quả với các tình huống, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia tăng tội phạm..., góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao tiềm lực, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước. Tổ chức triển khai có hiệu quả các giải pháp thực hiện chủ trương tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, “thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, được củng cố vững chắc”(2), các khu vực phòng thủ được quan tâm xây dựng cả về chiều rộng và chiều sâu; lực lượng vũ trang ngày càng vững mạnh, tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường... tăng thêm khả năng ngăn chặn, loại trừ nguy cơ xung đột, chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình huống quốc phòng, an ninh, xâm phạm an ninh quốc gia. 

Tuy nhiên, “Việc quán triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao. Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh có lúc chưa thật chủ động; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; an ninh trên một số địa bàn, lĩnh vực chưa thật vững chắc.... Việc kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh ở một số địa phương, đơn vị thiếu hiệu quả, còn biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng về lợi ích kinh tế đơn thuần, trước mắt”(3).

Những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo... Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết với nhau tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình” với âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng công khai, trực diện hơn. Tình hình nêu trên đòi hỏi phải quán triệt, thực hiện tốt các nội dung mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã kế thừa, phát triển về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Sự phát triển kế thừa đó được thể hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:

Trước hết, về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”(4). Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo cơ sở quan trọng cho Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn quân quán triệt và thực hiện. Đồng thời, Đại hội XIII của Đảng cũng xác định: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”(5). Phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục là nhiệm vụ trung tâm, được ưu tiên, nhưng không coi nhẹ nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, bởi vì củng cố quốc phòng, an ninh là cơ sở trực tiếp tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại, kinh tế - xã hội phát triển, tiềm lực đất nước ngày càng vững mạnh sẽ là “phương thức hữu hiệu” để tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.  

Về mục tiêu tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta chỉ rõ: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia  - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(6). Mục tiêu khẳng định hai vấn đề lớn: Một là, tiếp tục khẳng định nội dung bảo vệ Tổ quốc mang tính toàn diện cả phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội, văn hóa, môi trường sống, môi trường hòa bình... trong một chỉnh thể thống nhất; hai là, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân trong buổi huấn luyện đêm _Ảnh: TTXVN

Về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, cần phải: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế”(7) để bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển tư duy về lực lượng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta không chỉ là sự kế thừa, phát triển truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam là càng trong khó khăn, thử thách thì ý chí, khát vọng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc càng được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh vô địch để bảo vệ Tổ quốc; mà còn hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện, tình hình thế giới, khu vực dự báo sẽ tiếp tục diễn biến hết sức nhanh, phức tạp, khó lường; đồng thời, là sự cụ thể hóa chủ đề của Đại hội XIII của Đảng là: “... khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại...” để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, cần kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo được sức mạnh tổng hợp lớn nhất bảo vệ Tổ quốc. Đây là định hướng chính trị rất quan trọng, đồng thời đặt ra yêu cầu cao, đòi hỏi Nhà nước, các ban, bộ, ngành Trung ương, các địa phương phải tích cực, chủ động hơn nữa trong triển khai đường lối, chính sách, chiến lược đối ngoại nhằm khai thác cao nhất sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần tuyên truyền sâu rộng, thường xuyên để nhân dân trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế hiểu rõ, hiểu đúng và đủ về đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh của Việt Nam, từ đó nhận được sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Về phương châm chỉ đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, cần phải: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”(8). Củng cố quốc phòng và an ninh ngay trong thời bình, bảo đảm đủ sức mạnh đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn, đầy lùi từ sớm, từ xa những nhân tố bất ổn có thể dẫn đến các tình huống quốc phòng, an ninh và các thế lực thù địch lợi dụng gây hấn, tạo cớ gây xung đột, chiến tranh. Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung và nhấn mạnh đến vấn đề “Chú trọng an ninh, an toàn là một trong những yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của người dân. Xác định “chủ động phòng ngừa” là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh”(9).

Về tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, Đảng ta chủ trương tiếp tục “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”(10). Dựa vào nhân dân, tổ chức vận động, khai thác, huy động cao nhất trách nhiệm và mọi nguồn lực của nhân dân kết hợp với nguồn lực của Nhà nước tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta trong mọi giai đoạn cách mạng, đặt ra yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân phải toàn diện cả về lực lượng, tiềm lực và thế trận trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cả ở trong và ngoài nước. Trong xây dựng lực lượng cần coi trọng xây dựng cả lực lượng chính trị (lực lượng của các ngành, ở các cấp và nhân dân trong các cộng đồng dân cư...) và lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó quan tâm đặc biệt đến xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh làm nòng cốt. Cùng với xây dựng lực lượng, cần tập trung xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh toàn diện, trong đó chú trọng các tiềm lực cơ bản, như chính trị tinh thần, văn hóa, xã hội, kinh tế, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đồng thời, với xây dựng lực lượng, tiềm lực cần xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân cả về “thế trận lòng dân” và thế trận quân sự, an ninh.

Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh _Ảnh: Hà Quốc Thái

Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”(11).

Về phương hướng, mục tiêu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội và Công an tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống”(12). Đồng thời, “Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển. Quan tâm xây dựng lực lượng bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cơ sở đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở”(13). Đây là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng ta về sức mạnh tổng hợp và lực lượng toàn diện trong bảo vệ Tổ quốc; phản ánh sâu sắc tính chất toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong thời kỳ mới. Để quán triệt, thực hiện thắng lợi các mục tiêu trên, chúng ta cần tiến hành tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Cấp ủy, chính quyền các cấp cần quán triệt, thực hiện nghiêm nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; nguyên tắc này thể hiện ở chỗ Ðảng trực tiếp quyết định chủ trương, đường lối; trực tiếp lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Những chủ trương, quan điểm, đường lối của Ðảng phải được quán triệt sâu sắc trong nội bộ Ðảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, trong lực lượng quân đội, công an và toàn dân.

Các cơ quan chức năng của Ðảng cần coi trọng việc nghiên cứu những diễn biến mới của tình hình thế giới, khu vực, trong nước; dự báo chính xác các tình huống về quốc phòng, an ninh để tham mưu cho Đảng, Nhà nước lãnh đạo, điều hành, quản lý xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước trong quản lý, điều hành quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân trong tình hình mới là vấn đề có tính nguyên tắc; cần phân biệt có sự khác nhau giữa sự lãnh đạo của Ðảng với sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thể chế hóa quan điểm, đường lối, nghị quyết của Ðảng thành hệ thống các quy phạm pháp luật  như luật, pháp lệnh, nghị định... và tổ chức triển khai thực hiện trên phạm vi toàn xã hội. Ðể tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng, cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các thể chế, quy định, bổ sung, hoàn thiện luật, pháp lệnh và hệ thống chính sách đối với quốc phòng, an ninh, cần xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội. Kịp thời rà soát, phát hiện những bất cập và sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa quân đội và công an, hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh từ Trung ương đến cơ sở. Xác định cụ thể cơ chế vận hành, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách về công tác quốc phòng, an ninh ở các bộ, ngành, địa phương. Ðối với các cơ quan chức năng cần tổ chức phân công cán bộ chuyên trách, tăng cường bồi dưỡng, hướng dẫn để phát huy vai trò làm tham mưu, giúp việc trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, quán triệt, học tập Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ trong tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay, cần đổi mới, nâng cao chất lượng quán triệt, xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với tăng cường đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng, an ninh cho mọi cán bộ, đảng viên và toàn dân, nhất là lực lượng vũ trang, đối tượng cán bộ chủ chốt bằng các hình thức, phương pháp phong phú, bảo đảm đạt hiệu quả và chất lượng cao. Cần quán triệt tư tưởng và quan điểm của Đảng ta là phải đồng thời thực hiện tốt hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác cách mạng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Chủ động và kịp thời giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, toàn dân và toàn quân về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với nước ta, về đối tượng và đối tác của cách mạng Việt Nam. Đối với đối tượng cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh phải được thực hiện có nền nếp theo các quy định hiện hành. Đối với đối tượng là học sinh, sinh viên, chú trọng kết hợp giữa bài giảng, hội thảo khoa học với tham quan, tham gia trực tiếp vào việc xây dựng và giữ gìn các di tích lịch sử, giúp đỡ các gia đình có công với nước, với cách mạng. Giáo dục kiến thức quốc phòng, an ninh đối với toàn dân, cần gắn liền với việc xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, xây dựng "thế trận lòng dân’’, củng cố lực lượng dân quân, tự vệ và lực lượng dự bị động viên ở cơ sở.

Gắn kết tình cảm quân - dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc _Ảnh: TTXVN

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân mang tính toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, từng bước hiện đại được nhận thức sâu sắc và cụ thể hơn. Ðây là phương châm cơ bản của sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân ở nước ta, vừa đáp ứng yêu cầu đấu tranh trong thời bình, tạo sức mạnh ngăn chặn âm mưu gây chiến của kẻ thù, vừa đáp ứng yêu cầu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Trong đó, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân có quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau theo hướng hiện đại là một nội dung rất quan trọng, vừa thể hiện yêu cầu, lộ trình hiện đại hóa của nền quốc phòng, an ninh, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước và yêu cầu mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng độc lập, tự chủ, có tiềm lực mạnh, phù hợp sự phát triển của nền kinh tế đất nước, vừa đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh, vừa tham gia trực tiếp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Việc kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, xã hội và đối ngoại trở thành chiến lược quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thế trận bảo vệ Tổ quốc là sự thống nhất và kết hợp hài hòa giữa thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, cùng với các hoạt động đối ngoại nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của đất nước, vừa giữ vững ổn định, hòa bình, phát triển, ngăn chặn và đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, vừa sẵn sàng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân còn được tạo ra bởi sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng và thế trận quốc phòng; được tổ chức, bố trí hợp lý trên phạm vi cả nước kết hợp với từng hướng, từng địa bàn chiến lược, từng địa phương, cơ sở.

Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội cũng là nội dung hết sức quan trọng của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, được Ðảng ta hoạch định ngày càng cụ thể và sâu sắc hơn trong quá trình đổi mới. Trong xây dựng cơ sở chính trị của nền quốc phòng toàn dân, vấn đề xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là ở cơ sở, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng là những nội dung rất quan trọng được Ðảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo; phản ánh sâu sắc nguồn sức mạnh to lớn của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, tạo điều kiện và khả năng làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

-------------------------

(1), (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.  I, tr. 67, 68
(3), (4), (5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,  Sđd, t. I, tr. 87 - 88, 156, 110, 155 - 156
(7), (8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 155, 156, 157
(10), (11), (12), (13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I,  tr. 157, 158