Nguồn lực văn hóa cho phát triển đất nước hiện nay

TS. NGUYỄN NGỌC THIỆN
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

10:43, ngày 11-01-2021

TCCS - Nguồn lực văn hóa được xem là nguồn lực đặc biệt, là sức mạnh thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững theo hướng nhân văn, nhân bản. Tại Việt Nam, việc coi văn hóa như là nguồn vốn - nguồn lực của sự phát triển kinh tế - xã hội tuy mới được đề cập trong thời gian gần đây nhưng đã nhận được sự quan tâm, đồng thuận của toàn xã hội.

Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân  - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học (Trong ảnh: Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng thăm, tặng quà, chúc Tết cụ Hoàng Văn Bảo (nhân chứng lịch sử Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng) ở xã Kim Bình, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, năm 2011) _Ảnh: Tư liệu TTXVN

1- Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng ta luôn coi trọng sự phát triển văn hóa và đã có nhiều nghị quyết định hướng cho việc xây dựng và phát triển văn hóa, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”... Một trong những mục tiêu quan trọng được Đảng ta đặt ra là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân  - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng con người gắn với xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hóa và thụ hưởng các giá trị, sản phẩm văn hóa; chú trọng xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Đại hội XII cũng đề cao nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa; chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đây là vấn đề cơ bản, trọng tâm, cốt lõi để phát triển văn hóa - nguồn lực nội sinh nhằm xây dựng và phát triển bền vững đất nước. Nguồn lực văn hóa - vốn văn hóa không đứng ngoài kinh tế, chính trị, xã hội trong phát triển đất nước, tuy nhiên gần đây chúng ta mới thực sự quan tâm, chú trọng đến vấn đề này. Văn hóa có sứ mệnh làm nền tảng, làm mục tiêu cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nguồn lực văn hóa trở thành nguồn lực đặc biệt, khơi dậy, thúc đẩy các nguồn lực khác, tạo sức mạnh tổng hợp trong phát triển bền vững đất nước. Tiếp thu tinh thần của thời đại, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật..., phải biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển.

Nguồn lực văn hóa của nước ta khá dồi dào về số lượng, chất lượng và đa dạng về cách thức biểu đạt.

Nguồn lực con người là tổng thể những tiềm năng, năng lực của mỗi cá nhân và cộng đồng đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh để thúc đẩy xã hội phát triển. Đây là nguồn lực quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội. Hiện nay, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Cơ cấu dân số trẻ, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, tỷ lệ lao động chất lượng cao có xu hướng tăng, có khả năng nắm bắt, áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại cùng vẻ đẹp tâm hồn, sức mạnh, trí tuệ là những điểm mạnh trong nguồn lực con người ở nước ta cần được phát huy.

Nguồn lực sản phẩm văn hóa là nguồn lực được kết tinh bởi vốn tài nguyên thiên nhiên ban tặng, được vật thể hóa thành các sản phẩm vật chất chứa đựng những giá trị văn hóa phi vật thể, bao gồm di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam thắng cảnh... với các sản phẩm văn hóa sáng tạo của con người. Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa dân tộc, phong phú về thể loại, trong đó có nhiều di sản được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của nhân loại. Đây là những điều kiện thuận lợi để chúng ta phát triển du lịch, dịch vụ nhằm phát huy hiệu quả giá trị các di sản văn hóa, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách đầu tư cho phát triển văn hóa, từng bước đưa các ngành thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản phát triển; quan tâm, chú trọng các hoạt động sáng tác văn học, nghệ thuật; ngành điện ảnh, truyền hình không ngừng chuyển biến cả về chất và lượng; đội ngũ những người làm công tác văn hóa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Cùng với đó là những đổi mới trong cơ chế quản lý, tạo lập khung pháp lý cho các chủ thể trong các hoạt động văn hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi để văn hóa phát triển bền vững trong sự gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế - xã hội.

Các nguồn lực trên có mối quan hệ biện chứng, tác động, điều chỉnh lẫn nhau tạo sự phát triển bền vững đất nước, trong đó nguồn lực con người đóng vai trò quyết định, có thể tác động, thay đổi, phát huy sức mạnh các nguồn lực khác.

Phát triển văn hóa ngày càng gắn bó hơn với xây dựng con người Việt Nam, từng bước trở thành một trong những nguồn lực quan trọng của sự nghiệp phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế _Ảnh: Tư liệu

2- Với sự kết hợp của các nguồn lực, quá trình xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong những năm vừa qua có những bước phát triển đáng ghi nhận, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị, ngày 4-6-2020, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã khẳng định, phát triển văn hóa ngày càng gắn bó hơn với xây dựng con người Việt Nam, từng bước trở thành một trong những nguồn lực quan trọng của sự nghiệp phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. Chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa từng bước được nâng cao; xây dựng môi trường văn hóa được chú trọng, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa, phát triển. Nhiều chủ trương, chính sách, quy định pháp luật được ban hành đã tạo cơ sở chính trị -  pháp lý và điều kiện để xây dựng con người. Nhiều chuẩn mực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của con người thời đại Hồ Chí Minh đã được đưa vào một số văn bản pháp luật, vào quy ước, hương ước tại các làng, xã, vào quy định, nội quy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức xã hội. Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị  - xã hội đẩy mạnh các phong trào khởi nghiệp, thiện nguyện, gắn với phong trào thi đua yêu nước, xây dựng giá trị chuẩn mực con người Việt Nam phù hợp với từng đối tượng; quan tâm hơn đến giáo dục con cháu trong gia đình, dạy chữ kết hợp với dạy người và dạy những kỹ năng sống, nâng cao thể chất, tầm vóc cho thế hệ trẻ. Công tác gia đình có nhiều tiến bộ, nhất là ở cấp chính quyền cơ sở, góp phần thực hiện bình đẳng giới, hạn chế bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái. Tiếp tục đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với “Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; quan tâm hơn đến thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với việc xây dựng hương ước, quy ước văn hóa, thực hiện nếp sống trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc có chuyển biến tích cực, huy động được nhiều nguồn lực xã hội, giữ gìn di sản văn hóa truyền thống, nhất là một số loại hình nghệ thuật có nguy cơ bị mai một; khai thác giá trị của di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch. Một số chính sách, pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho công tác xây dựng và phát triển văn hóa, con người được ban hành. Hệ thống thiết chế văn hóa được đầu tư và từng bước chuyển đổi cơ chế, đổi mới về phương thức hoạt động. Thị trường văn hóa bước đầu được hình thành. Hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật có bước phát triển mới với việc tìm tòi và mở rộng đề tài, hình thức thể nghiệm, tạo ra sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật phong phú, đa dạng hơn. Vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người được coi trọng phát huy hơn. Hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại ngày càng chủ động hơn.

Nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa, phát triển _Ảnh: Nguyễn Nam

Song, thực tế vẫn còn những hạn chế, bất cập, như việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế chưa đạt được mục tiêu đề ra; đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại; môi trường văn hóa có những mặt chưa thực sự lành mạnh; việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao. Tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, văn hóa đặc trưng của một số dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một dần. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Một số chủ trương, quan điểm về văn hóa chậm được thể chế; chưa giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong quản lý văn hóa. Việc xây dựng môi trường văn hóa, danh hiệu phong trào văn hóa ở một số nơi còn mang tính hình thức, chạy theo thành tích; sự chênh lệch hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền tiếp tục gia tăng; thực phẩm bẩn, tệ nạn xã hội, gian lận thi cử, xâm hại tình dục trẻ em, chạy chức, chạy quyền, gian lận kinh doanh vì lợi ích cá nhân... gây mất lòng tin, hoang mang trong xã hội. Một số chính sách về văn học, nghệ thuật chưa mang tính chiến lược; đầu tư cho văn học, nghệ thuật còn thấp; nhiều bất cập trong đầu tư cho hoạt động quảng bá, phổ biến tác phẩm. Việc chỉ đạo phát triển công nghiệp văn hóa còn chậm. Các đặc trưng cơ bản của nền văn hóa là “dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học” cùng quan điểm xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được quán triệt thường xuyên; có dấu hiệu bị buông lỏng trong cả ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội.

Nguyên nhân của thực trạng trên chủ yếu là nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa trong một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và một bộ phận nhân dân chưa đầy đủ, sâu sắc; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý chưa thực sự đổi mới, nhất là trong việc xây dựng, đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. Các quy định hiện hành của pháp luật chưa ngang tầm với những đòi hỏi cấp bách và lâu dài của cuộc sống, với sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước nói chung và chiến lược “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” nói riêng mà Đảng đã đề ra. Do vậy, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa có mặt còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Chưa phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp, sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ của các chủ thể văn hóa, khích lệ, động viên tính tích cực xã hội của nhân dân, nhất là đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức trong tổ chức thực hiện nghị quyết. Công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để hình thành cơ sở lý luận, đúc kết hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam còn chậm, lúng túng, bị động...

3- Để tiếp tục phát huy các nguồn lực văn hóa nhằm phát triển đất nước và con người Việt Nam cần quan tâm một số nội dung sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xác định rõ xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chú trọng tính đặc thù của văn hóa, vừa bảo đảm để văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm tự do sáng tạo của cá nhân trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn. Tăng cường tuyên truyền để người dân có nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, vai trò của văn hóa, từ đó có những hành động thiết thực để vừa bảo tồn, gìn giữ, vừa phát huy những di sản văn hóa vô giá của cha ông, đồng thời không ngừng nỗ lực sáng tạo để làm giàu thêm “vốn văn hóa” của dân tộc mình.

Nghi thức dâng cúng bánh tét Quốc tổ Hùng Vương tại Đền thượng, Khu tưởng niệm các Vua Hùng thuộc Công viên Lịch sử văn hóa dân tộc, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh _Ảnh: TTXVN

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách phát triển văn hóa. Chú trọng đầu tư những thiết chế văn hóa phù hợp, thiết thực; tạo sự dân chủ trong hoạt động sáng tạo - quảng bá  - tiêu dùng các sản phẩm văn hóa; khuyến khích năng lực sáng tạo của các nghệ sĩ và người dân. Bên cạnh đó, có cơ chế, chính sách hiệu quả trong thu hút và trọng dụng nhân tài. Đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục - đào tạo; phát triển mạnh mẽ và quản lý có hiệu quả lĩnh vực thông tin - truyền thông, báo chí - xuất bản. Cần rà soát, đánh giá và tiếp tục triển khai nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết số 33-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.

Thứ ba, tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người Việt Nam có thế giới quan khoa học, có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc tính cơ bản “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”. Tăng cường giáo dục thẩm mỹ, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng xã hội cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Xây dựng lối sống tuân thủ pháp luật, tôn trọng đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “tương thân tương ái”. Khẳng định, tôn vinh, nhân rộng các giá trị tốt đẹp, nhân văn. Coi trọng hơn nữa công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người làm công tác văn hóa, nghệ thuật có đủ phẩm chất chính trị và năng lực thực thi nhiệm vụ được giao.

Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn hóa lành mạnh, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Có cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ thanh thiếu nhi, hình thành nhân cách, đạo đức trong sáng và kỹ năng ứng xử xã hội văn minh. Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, ứng xử đúng đắn với môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh. Huy động các nguồn lực đầu tư, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, các tầng lớp trong xã hội. Có những chế tài xử lý mạnh, đủ sức răn đe đối với những hành vi xâm hại văn hóa dân tộc; ngăn chặn, đẩy lùi những tư tưởng phản động, những sản phẩm phi văn hóa trên các mạng xã hội. Đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, các hành vi tiêu cực, cơ hội, vi phạm pháp luật, truyền bá tư tưởng sai trái, lối sống thực dụng, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

Thứ năm, xử lý hài hòa giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc với phát triển kinh tế, du lịch bền vững ở các địa phương, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Chú trọng thực hiện các chương trình phục hồi, bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một; giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, các giá trị văn hóa trong tôn giáo, tín ngưỡng. Tạo điều kiện, khuyến khích sự sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật, nâng cao tính chuyên nghiệp, đồng thời phát triển sâu rộng văn học, nghệ thuật quần chúng. Phát huy vai trò của báo chí, nâng cao hiệu quả hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên môi trường mạng.

Thứ sáu, tăng cường phát triển du lịch, thương mại dịch vụ, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển sản phẩm du lịch mang bản sắc riêng. Có cơ chế, chính sách hợp lý để phát triển các ngành, nghề thủ công truyền thống. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, ưu tiên đầu tư một số cơ sở đào tạo trọng điểm, chất lượng cao và một số ngành công nghiệp văn hóa chủ đạo, có khả năng dẫn dắt các hoạt động văn hóa. Tăng cường bảo hộ quyền tác giả, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Tạo nhận thức sâu sắc của toàn xã hội về vị trí, vai trò của các ngành công nghiệp văn hóa. Phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường; tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư để phát triển công nghiệp văn hóa. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích hoạt động sáng tạo, thu hút đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, tạo thuận lợi để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Nâng cao hiệu quả việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Đẩy mạnh việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè thế giới thông qua các phương tiện truyền thông mới và các hoạt động giao lưu văn hóa./.