Động lực tăng trưởng và xác định động lực tăng trưởng đất nước giai đoạn 2021 - 2030 (kỳ 2)
11:41, ngày 29-06-2020
TCCS - Bước sang giai đoạn phát triển mới, đất nước ta đứng trước đòi hỏi khách quan phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, phát triển nhanh, bền vững dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ cao, dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, để đất nước không rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước bước vào nhóm nước phát triển hiện đại, có thu nhập cao. Để đạt được mục tiêu này, phải xác định và hiện thực hóa các động lực tăng trưởng, phát triển ở tất cả các cấp độ, các chủ thể; mỗi lĩnh vực, mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi đơn vị phải xác định và hiện thực hóa có hiệu quả động lực tăng trưởng, phát triển trong sự kết nối với động lực tăng trưởng, phát triển của đất nước.
Nhân tố con người là tâm điểm quy tụ tất cả các yếu tố vật chất và phi vật chất, giá trị văn hóa, khoa học - công nghệ, để tạo thành động lực phát triển (Trong ảnh: Sinh viên Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội thực nghiệm khoa học) Ảnh: Tư liệu
Động lực nhân tố con người - nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao
Trong tất cả các mô hình tăng trưởng, phát triển, con người luôn là chủ thể trung tâm; tuy nhiên, khi nền kinh tế, xã hội chuyển sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, thì vai trò chủ thể của con người được nâng lên về chất, phương diện tri thức sáng tạo trở thành nhân tố chủ đạo trong hoạt động của con người ở mọi cấp độ.
Nhân tố con người không thể chỉ nhìn nhận theo góc độ người lao động với những tri thức và kỹ năng chuyên môn nào đó, mà phải được nhìn nhận theo góc độ là chủ thể của quá trình xây dựng - phát triển - bảo vệ Tổ quốc. Nhân tố con người là tâm điểm quy tụ tất cả các yếu tố vật chất và phi vật chất, giá trị văn hóa, khoa học - công nghệ, để tạo thành động lực phát triển; nhân tố con người không đáp ứng yêu cầu thì dù có nhiều cơ hội, có nhiều nguồn lực, nhiều phương tiện hiện đại cũng không thể sử dụng có hiệu quả để thúc đẩy phát triển. Do đó, nhân tố con người phải chứa đựng những giá trị cốt lõi nhất của một chủ thể phát triển đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn mới, đó là những giá trị văn hóa, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội, đạo đức nghề nghiệp, nhân cách, lối sống, khát vọng cống hiến chấn hưng đất nước; năng lực đổi mới sáng tạo, tự chủ; tri thức khoa học, công nghệ hiện đại; năng lực thực hành sáng tạo, hiệu quả; thể chất, kỹ năng sống, năng lực liên kết, hợp tác và hội nhập… Nhân tố con người với tư cách là một động lực phát triển không thể chỉ tiếp cận theo góc độ cá nhân con người, mà còn phải được tiếp cận theo sức mạnh cộng sinh (cấp số nhân) giữa các cá nhân trong một cộng đồng, một đơn vị, một tổ chức, giữa các cộng đồng, đơn vị, tổ chức, cao hơn nữa là cả một dân tộc.
Trong sự phát triển của đất nước, các tầng lớp xã hội khác nhau, các nhóm xã hội khác nhau, các chủ thể khác nhau sẽ có vai trò khác nhau, tuy nhiên sẽ liên kết với nhau một cách khách quan theo một cấu trúc phù hợp để tạo nên động lực phát triển của mỗi đơn vị, tổ chức và của cả dân tộc. Theo chức năng xã hội, có thể phân ra các loại nguồn nhân lực như sau: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý các cấp; đội ngũ chuyên gia khoa học - công nghệ; đội ngũ doanh nhân; đội ngũ chuyên viên kỹ thuật; đội ngũ công nhân lành nghề; đội ngũ lao động phổ thông. Trong mỗi loại nhân lực đó lại có thể chia ra các trình độ khác nhau. Sức chi phối, sức lan tỏa nhân tố con người của mỗi loại nhân lực đó là khác nhau, cấp càng cao thì càng có vai trò lớn. Chính vì vậy, khi chuyển sang phát triển theo chiều sâu, thì những giá trị cốt lõi về nhân tố con người ở cấp càng cao càng phải đáp ứng những yêu cầu cao hơn, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Nhưng dù ở cấp nào thì yêu cầu “thực đức - thực tài” tương ứng vẫn phải được bảo đảm. Chính vì vậy, để phát triển nhân tố con người đáp ứng với yêu cầu là chủ thể vững vàng của quá trình phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn mới, phải quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm và đẩy mạnh triển khai đồng bộ, có hiệu quả sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, theo định hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế”, gắn liền với hoàn thiện đồng bộ thể chế và thiết chế phát triển văn hóa để xây dựng hệ giá trị Việt Nam (bao hàm tổng hợp các giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội) đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn mới.
Động lực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo
Chuyển sang mô hình tăng trưởng, phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hiệu quả tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, con đường duy nhất là phải dựa vào phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Để khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực then chốt cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, cần tăng nguồn lực đầu tư gắn liền với đổi mới, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển khoa học - công nghệ, bảo đảm sự gắn bó hữu cơ giữa phát triển khoa học - công nghệ với phát triển tất cả các lĩnh vực khác. Cần nhận thức đầy đủ vai trò then chốt của khoa học - công nghệ không chỉ đối với phát triển lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, mà còn thể hiện trực tiếp trong hiện đại hóa phương thức lãnh đạo, quản lý, quản trị đất nước.
Quán triệt sâu sắc quan điểm “khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu”, “là động lực then chốt” và phải được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách cụ thể đối với sự phát triển của đất nước, nhất là đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc.
Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực chính của mô hình tăng trưởng, phát triển theo chiều sâu, thúc đẩy phát triển kinh tế số. Phát triển hệ thống sáng tạo quốc gia, hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp là trung tâm ứng dụng công nghệ và phát triển sản phẩm, các trường đại học và các viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu và phát triển (R&D); tạo cơ chế liên kết hữu cơ giữa các cơ sở nghiên cứu với các doanh nghiệp trên cơ sở chia sẻ về trách nhiệm và lợi ích tương hỗ.
Xây dựng và thực thi có hiệu quả Chiến lược phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao. Đây là một bộ phận hữu cơ hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với trọng tâm là công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại, với mục tiêu thúc đẩy, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế và sản phẩm hàng hóa. Tiếp tục phát triển tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia gắn liền với phát triển toàn diện hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; tập trung triển khai các hướng nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ mới đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Xây dựng chương trình quốc gia về đổi mới và phát triển công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ. Coi trọng phát triển khoa học xã hội - nhân văn và khoa học về con người làm nền tảng cho sự phát triển và quản lý phát triển xã hội nhân văn, văn minh, hiện đại.
Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ; xác định rõ vai trò chủ đạo của Nhà nước trong định hướng chiến lược và điều tiết đầu tư phát triển, vai trò trung tâm của các doanh nghiệp trong việc ứng dụng và phát huy hiệu quả, nâng cao năng suất lao động trong cơ chế thị trường, vai trò then chốt của các cơ sở khoa học - công nghệ trong nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ gắn với ứng dụng vào thực tiễn.
Tiếp tục tăng đầu tư (có trọng tâm, trọng điểm) gắn liền với đổi mới cơ chế để nâng cao hiệu quả đầu tư; đồng thời, hoàn thiện cơ chế, chính sách để huy động mạnh mẽ các nguồn lực từ xã hội, nhất là từ các doanh nghiệp để đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển các loại quỹ đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là quỹ quốc gia hỗ trợ cho phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, công nghệ cao. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để gắn hữu cơ, hiệu quả giữa nghiên cứu - ứng dụng khoa học - công nghệ với đào tạo nguồn nhân lực khoa học - công nghệ chất lượng cao, trình độ cao.
Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước, cơ chế, chính sách để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong hoạt động khoa học - công nghệ, gắn liền cống hiến với hưởng thụ, lợi ích với trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội; bảo vệ sở hữu trí tuệ. Tiếp tục đổi mới căn bản cơ chế quản lý hệ thống các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế tài chính, gắn liền với đổi mới phương thức xây dựng và triển khai các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, các doanh nghiệp, các tổ chức sử dụng, ứng dụng kết quả nghiên cứu là chủ thể trung tâm. Lấy kết quả, hiệu quả cuối cùng làm tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động khoa học, công nghệ. Xây dựng môi trường hoạt động khoa học - công nghệ dân chủ, công khai, minh bạch; khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, hành chính hóa trong hoạt động khoa học - công nghệ.
Xây dựng chiến lược và hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học - công nghệ, nhất là các lĩnh vực tiên tiến, mũi nhọn, công nghệ cao; tranh thủ nguồn lực và tri thức khoa học - công nghệ của các quốc gia tiên tiến; hình thành mạng lưới kết nối, thu hút sự tham gia đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài. Tuy nhiên, cần quán triệt, khoa học - công nghệ chỉ trở thành động lực phát triển trên thực tế khi bảo đảm tính khả thi về mặt công nghệ, tính khả thi về mặt kinh tế, tính khả thi về mặt xã hội và tính khả thi về mặt môi trường.
Phát triển đồng bộ hệ thống chủ thể sản xuất - kinh doanh hiện đại, hiệu quả
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là phát triển nền kinh tế hiện đại, hệ thống các chủ thể sản xuất kinh doanh, trước hết là các doanh nghiệp, đóng vai trò trung tâm của sự phát triển, vì các chủ thể này là nơi tập trung tất cả các yếu tố đầu vào (lao động, vốn, đất đai, tài nguyên, khoa học - công nghệ, tri thức…) để tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ; quyết định chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của từng chủ thể và của cả nền kinh tế. Một quốc gia không phát triển được hệ thống các chủ thể sản xuất, kinh doanh mạnh thì không thể tạo được động lực phát triển nhanh, bền vững.
Bước vào giai đoạn phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hệ thống các chủ thể sản xuất, kinh doanh của nước ta đã có bước phát triển đáng kể, góp phần vào sự phát triển của đất nước (Trong ảnh: Dây truyền sản xuất điện thoại thông minh tại nhà máy VinSmart) _Ảnh: Tư liệu
Sau hơn 30 năm đổi mới, bước vào giai đoạn phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hệ thống các chủ thể sản xuất, kinh doanh của nước ta đã có bước phát triển đáng kể, góp phần vào sự phát triển của đất nước. Hệ thống đó bao gồm: Các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp FDI, các hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể, các hộ nông dân. Cho đến nay, cả nước có khoảng 700.000 doanh nghiệp các loại, hàng nghìn hợp tác xã và hàng triệu hộ kinh doanh cá thể. Tuy nhiên, xét từ vai trò là chủ thể - động lực chủ yếu của tăng trưởng và phát triển, các chủ thể này đang bộc lộ một số hạn chế sau:
Một là, số lượng doanh nghiệp và hợp tác xã còn ít so với tương quan dân số và so với các nước trong khu vực và thế giới.
Hai là, quy mô của các doanh nghiệp nhìn chung còn nhỏ, tốc độ tăng số lượng doanh nghiệp lớn và vừa còn chậm.
Ba là, các loại doanh nghiệp (nhà nước, tư nhân, FDI) đều chưa phát huy hết vai trò khách quan của mình đối với sự tăng trưởng và phát triển đất nước xét từ góc độ sử dụng nguồn lực, đóng góp vào tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Hiệu quả sản xuất, kinh doanh, trình độ công nghệ, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước vẫn thấp hơn so với các doanh nghiệp FDI.
Bốn là, doanh nghiệp nhà nước đang trong quá trình cơ cấu lại, nhưng còn chậm, chưa đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển của nền kinh tế; doanh nghiệp tư nhân về cơ bản là quy mô nhỏ và siêu nhỏ, tiềm lực hạn chế, trình độ công nghệ thấp, năng lực cạnh tranh và tham gia vào chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu còn hạn chế. Điều đáng nói là số doanh nghiệp tư nhân trực tiếp tham gia sản xuất chiếm tỷ trọng rất nhỏ, đa số hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và bất động sản, tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp tư nhân vào GDP trong nhiều năm vẫn chưa vượt ngưỡng mức 10% và chậm thay đổi. Kinh tế tư nhân chưa thật sự trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế. Doanh nghiệp FDI ít có mối liên kết và chuyển giao công nghệ với doanh nghiệp nội địa, trình độ công nghệ chủ yếu là trung bình, chủ yếu vẫn gia công lắp ráp, giá trị gia tăng mang lại cho Việt Nam còn thấp…
Thực trạng hệ thống các chủ thể sản xuất, kinh doanh cho thấy những bất cập, mất cân đối về cấu trúc các loại chủ thể, trình độ của các loại chủ thể; về cơ bản các loại chủ thể kinh doanh chưa phát huy hiệu quả, vai trò, vị trí khách quan của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế. Những bất cập của hệ thống các chủ thể kinh doanh trên đã hạn chế đáng kể động lực tăng trưởng và phát triển đất nước. Vấn đề đặt ra là phải hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển tất cả các chủ thể sản xuất, kinh doanh, cấu trúc lại hệ thống các chủ thể này đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn mới, phát huy vai trò khách quan của tất cả các chủ thể thuộc tất cả các thành phần kinh tế trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, một cách bình đẳng, theo quan điểm hiệu quả tổng hợp. Điều quan trọng là phải đẩy mạnh phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp nội địa (cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước), nhất là các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất trong các lĩnh vực chủ đạo, then chốt, để tạo nền móng cho sức mạnh của nền kinh tế dân tộc, bảo đảm cho sự phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, bền vững. Đó cũng là cơ sở quan trọng để bảo đảm sự liên kết có hiệu quả cao với các doanh nghiệp FDI và hội nhập quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động; đổi mới chiến lược và cơ chế, chính sách thu hút vốn FDI theo hướng tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực mũi nhọn, liên kết với các doanh nghiệp nội địa với nhiều hình thức. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp vừa và lớn, các doanh nghiệp sản xuất đi vào các lĩnh vực công nghệ cao, mũi nhọn. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để thúc đẩy các hộ cá thể phát triển thành doanh nghiệp; thúc đẩy các hộ nông dân tích tụ, tập trung ruộng đất với những hình thức và quy mô hợp lý để đi vào sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, chất lượng cao, công nghệ cao, gắn liền với phát triển các hợp tác xã kiểu mới, trong sự liên kết hữu cơ với các doanh nghiệp. Với một cấu trúc hợp lý, hài hòa của hệ thống các chủ thể sản xuất kinh doanh, cùng với việc nâng cao hiệu quả hoạt động trong sự liên kết với nhau, phát huy vị trí, vai trò khách quan của mỗi loại chủ thể trong từng lĩnh vực và trong từng giai đoạn sẽ tạo được động lực cộng hưởng to lớn để bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.
Động lực về lợi ích
Lợi ích luôn là vấn đề cốt lõi của phát triển, là động lực chủ đạo bên trong của tăng trưởng và phát triển. Sẽ không thể có tăng trưởng và phát triển bền vững nếu không tạo ra được lợi ích và bảo đảm sự hài hòa về lợi ích giữa các chủ thể trong quá trình phát triển. Lợi ích được nhìn nhận không chỉ là lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất, mà còn là các giá trị tinh thần, giá trị đạo đức, giá trị con người và giá trị xã hội; cũng không chỉ là các lợi ích của từng cá nhân, mà còn là lợi ích của từng đơn vị, tổ chức, cộng đồng, toàn xã hội và cả quốc gia, dân tộc. C. Mác từng nói, tư tưởng mà không gắn với lợi ích thì tư tưởng đó tự bôi nhọ mình. Vì vậy, không thể nhìn nhận siêu hình về lợi ích. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng chủ nghĩa xã hội có thể được xây dựng chỉ cần dựa trên nhiệt tình, tư tưởng và đạo đức của con người, mà không cần quan tâm đến lợi ích của họ. Việc bảo đảm đúng đắn và hài hòa lợi ích giữa các chủ thể là một động lực quan trọng của sự phát triển xã hội.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, các lợi ích của các chủ thể phải được chế định công khai, minh bạch, gắn cống hiến với hưởng thụ. Cần hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để gắn hữu cơ giữa khuyến khích, thúc đẩy tạo ra ngày càng nhiều lợi ích với việc phân phối lợi ích giữa các chủ thể (không mang tính bình quân chủ nghĩa, nhưng cũng có những chính sách phù hợp với các đối tượng chính sách, các đối tượng yếu thế), để lợi ích thật sự trở thành động lực nội sinh quan trọng cho sự phát triển nhanh, bền vững.
Trong điều kiện phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, thì thể chế phân bổ nguồn lực và phân bổ lợi ích phải thể hiện được ưu tiên này; đây không chỉ vì lợi ích cụ thể của từng chủ thể, mà còn vì sự phát triển và lợi ích của cả đất nước khi đi vào phát triển theo chiều sâu. Hơn nữa, do trình độ phát triển và xã hội hóa ngày càng cao không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn vượt ra tầm quốc tế, tạo sự liên kết ngày càng sâu rộng giữa các chủ thể, các quốc gia trong hầu hết các lĩnh vực, vì thế cần hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để bảo đảm công bằng, bình đẳng về lợi ích liên kết giữa các chủ thể, gắn hữu cơ giữa quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích và rủi ro (nếu có) giữa các chủ thể.
Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông và đô thị Thành phố Hồ Chí Minh _Ảnh: Tư liệu
Động lực từ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Đảng ta đã xác định một trong ba đột phá chiến lược là xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị. Có thể coi đây là một động lực tăng trưởng, theo nghĩa phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng sẽ tạo cơ sở nền tảng để phát triển các lĩnh vực khác. Trong 10 năm qua, hệ thống kết cấu hạ tầng (trước hết là hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị) đã có bước phát triển quan trọng. Tuy nhiên, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông và đô thị đang bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế, như: quy hoạch phát triển còn chưa đồng bộ, phân tán, chất lượng và hiệu quả của nhiều công trình thấp, chưa đáp ứng tối đa yêu cầu… Thực tiễn cho thấy, cần có cách tiếp cận bao trùm hơn về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, nghĩa là cần phát triển đồng bộ, phù hợp, hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường trong từng giai đoạn, gắn kết hiệu quả mục tiêu trước mắt với mục tiêu trung và dài hạn. Trong điều kiện nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng hạn hẹp, vấn đề quan trọng là cần có quy hoạch phát triển và bước đi phù hợp trên bình diện quốc gia và gắn với từng địa phương, lĩnh vực, tạo được sự kết nối và phát huy được lợi thế so sánh của các vùng, địa phương, lĩnh vực. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng hệ thống giao thông, nhất là những dự án mang tính chiến lược, phục vụ thiết thực và tạo động lực phát triển cho các chuỗi sản xuất, kinh doanh chủ lực. Bên cạnh đó, cần chú trọng phát triển đồng bộ kết cầu hạ tầng xã hội và môi trường, bảo đảm phát triển theo chiều sâu và bền vững. Trong đó, cần tập trung phát triển hệ thống hạ tầng văn hóa, thông tin gắn với hoàn thiện thể chế quản lý để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững về mặt xã hội. Trong quá trình phát triển đô thị, xây dựng đô thị thông minh và xây dựng nông thôn mới, cần quan tâm xây dựng đồng bộ, hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường phù hợp với điều kiện của từng vùng. Vấn đề bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu không chỉ được tiếp cận theo góc độ giải pháp kỹ thuật, công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường, xử lý chất thải, phòng, chống tác hại thiên tai…, mà cần tiếp cận cả ở góc độ là cơ sở nền tảng để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, sinh thái bền vững.
Động lực đại đoàn kết dân tộc và phát huy sức mạnh cộng đồng
Bài học lịch sử về “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công” luôn có giá trị to lớn trong phát huy sức mạnh của cả dân tộc để phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo đất nước trong giai đoạn mới. Vấn đề cốt lõi là phải xây dựng đồng bộ nền tảng chính trị, tư tưởng, pháp lý, kinh tế, văn hóa, đạo đức, xã hội làm cơ sở cho phát huy sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc. Cần bảo đảm đầy đủ quyền, lợi ích, cơ hội phát triển, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi cộng đồng người trong sự gắn bó hữu cơ với sự phát triển của Tổ quốc, dân tộc; gắn bó hữu cơ giữa những giá trị, lợi ích, sức mạnh, khát vọng phát triển của những cá nhân để tạo nên sức mạnh của mỗi đơn vị, tổ chức, cộng đồng và sức mạnh của cả dân tộc; quy tụ sự đồng lòng, hòa hợp dân tộc, chung tay xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước giàu mạnh.
Đại đoàn kết dân tộc phải được thể hiện trực tiếp ở phát huy sức mạnh cộng đồng trong trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua các thể chế, thiết chế chính thức và phi chính thức; được thể hiện ở phát huy có hiệu quả dân chủ cơ sở theo phương châm: “Dân cần - Dân biết - Dân bàn - Dân quyết - Dân làm - Dân kiểm tra - Dân hưởng lợi”, nâng cao vai trò của người dân và cộng đồng từ đối tượng thụ hưởng lên vai trò chủ thể - đối tác phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước theo các nguyên tắc thượng tôn pháp luật.
Việc hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để phát huy sức mạnh tổng hợp của các động lực sẽ là nhân tố quyết định đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững trong giai đoạn mới./.