Một số vấn đề về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc

GS, TS TẠ NGỌC TẤN
Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương

05:00, ngày 28-07-2025

TCCS - Trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, khi thời cơ và thách thức đan xen, yêu cầu đặt ra là Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ để giữ vững vai trò lãnh đạo. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên, mà là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.

Tổng Bí thư Tô Lâm kiểm tra hoạt động tại Trung tâm hành chính công thành phố Hà Nội _Ảnh: TTXVN

Bối cảnh mới của thế giới

Chưa bao giờ biến động của thế giới lại nhanh chóng, phức tạp và khó dự báo như ngày nay. Các nước lớn vừa gia tăng cạnh tranh chiến lược, lôi kéo đồng minh, tranh giành quyền lực, lợi ích và không gian sinh tồn, vừa thỏa hiệp, hợp tác nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển. Các nước mới nổi tăng cường tập hợp lực lượng, hình thành những thế lực mới tham gia vào tiến trình toàn cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Nhìn tổng thể, thế giới đang vận động theo hướng đa cực, đa trung tâm, tạo thành một cục diện mới vừa đấu tranh, vừa hợp tác linh hoạt đến bất ngờ và phức tạp đến khó lường.

Sau khi hệ thống chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới sụp đổ, các nước tư bản chủ nghĩa có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, củng cố sức mạnh quân sự, nâng tầm vị thế trong quan hệ quốc tế; tiếp tục thích ứng nhanh với hoàn cảnh, điều kiện thực tế để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong nội bộ xã hội mỗi nước và giữa chính các nước đồng minh với nhau. Tuy nhiên, mâu thuẫn cố hữu, bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa không hề mất đi, mà vẫn hằng ngày, hằng giờ bùng phát thành những vấn đề của xã hội tư bản chủ nghĩa, của các thế lực chính trị, kinh tế, liên minh chính trị, quân sự.

Sự phát triển nhanh, mạnh như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với các thành tựu khoa học - công nghệ đột phá, như công nghệ thông tin, công nghệ số, robot, chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ vật liệu mới... đã gây đảo lộn lối sống, phương thức lao động của nhân loại, thay đổi trạng thái quyền lực, phương thức quản trị, vận hành xã hội, thậm chí thay đổi cả thang giá trị của xã hội loài người.

Thế giới đứng trước những mâu thuẫn phức tạp: Sự phát triển chuỗi giá trị, cung ứng và chuỗi sản xuất, giải quyết các vấn đề hòa bình, an ninh trên phạm vi toàn thế giới; đồng thời, sự cạnh tranh quyền lực, tranh chấp lợi ích, chủ nghĩa dân tộc, bất đồng tôn giáo và nhiều vấn đề khác không ngừng gây ra rào cản, nút thắt trong quan hệ kết nối giữa các quốc gia, dân tộc, các liên minh chính trị, quân sự. Vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống ngày càng phức tạp, khó giải quyết, nhiều “điểm nóng” xuất hiện trên khắp các khu vực, có nguy cơ bùng nổ thành xung đột, thậm chí là chiến tranh cục bộ.

Diễn biến phức tạp, khó lường trong bối cảnh thế giới hiện nay vừa tiềm ẩn khó khăn, thách thức, vừa mở ra thời cơ, thuận lợi cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ta, đòi hỏi chúng ta linh hoạt, sáng tạo, hạn chế và hóa giải khó khăn, thách thức, tranh thủ mọi thời cơ, phát huy thuận lợi để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển trong kỷ nguyên mới,

Bối cảnh đất nước sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới

Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự dẫn dắt của Đảng, công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thống nhất, độc lập, chủ quyền quốc gia và nền hòa bình được giữ vững; kinh tế ngày càng phát triển; chính trị - xã hội ổn định; an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện toàn diện. Từ một quốc gia bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã mở ra cánh cửa để hội nhập sâu rộng, toàn diện vào thế giới, thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, trong đó có quan hệ chiến lược toàn diện và quan hệ toàn diện với tất cả quốc gia Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an, tích cực tham gia vào sứ mệnh gìn giữ hòa bình, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín đất nước trên trường quốc tế. Từ một nước nghèo, nền kinh tế lạc hậu, trải qua 30 năm bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã vượt qua nhóm nước thu nhập thấp từ năm 2008, tham gia vào nhóm 32 quốc gia có nền kinh tế lớn, có quan hệ kinh tế với 230 nền kinh tế trên thế giới, GDP bình quân đầu người đạt gần 5.000 USD, giá trị xuất, nhập khẩu đạt xấp xỉ 700 tỷ USD. Từ chỗ thiếu đói, đất nước ta đã giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều xuống còn 2,93%, sản xuất lương thực đủ nuôi sống trên 100 triệu dân và xuất khẩu gạo đứng trong tốp 3 nước dẫn đầu thế giới. Tuổi thọ trung bình 75 tuổi. Chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước đang phát triển.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, năng lực tự chủ hạn chế, sức cạnh tranh chưa cao, năng suất lao động thấp, hạn chế trong tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất toàn cầu. Tốc độ già hóa dân số diễn ra nhanh. An ninh phi truyền thống đang đặt ra nhiều thách thức, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế, xã hội và đời sống của người dân, nhất là biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh.

Bài học của Đảng ta qua quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam

Trong bài viết nhân kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 - 3-2-2025), Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam suốt 95 năm qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu, cùng sự hy sinh, chiến đấu, lao động sáng tạo của toàn dân, toàn quân dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, sự hỗ trợ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế”(1). Đây chính là bài học lớn nhất, quan trọng nhất, được đúc kết từ quá trình gần một thế kỷ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành độc lập, tự do, đến công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước to đẹp, đàng hoàng, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì vai trò có tính quyết định của sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng mà Đảng ta luôn coi bài học về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là bài học đầu tiên, quan trọng nhất.

 Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội XIII của Đảng xác định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”(2).

Việc xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực và uy tín lãnh đạo Nhà nước, xã hội hoàn thành nhiệm vụ chính trị, mang lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử lại trở thành cơ sở, điều kiện để khẳng định rằng: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”(3).

Như vậy, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, uy tín lãnh đạo Nhà nước và xã hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Bài học của phong trào công nhân và cộng sản thế giới hơn 100 năm qua, nhất là bài học từ sự đổ vỡ của Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản ở các nước Đông Âu trước đây

Từ sự đổ vỡ của Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây, chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm đó là:

Trước hết, đó là sai lầm trong nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, không hiểu đúng bản chất của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một học thuyết khoa học. Sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là sáng tạo, phát triển không ngừng trong điều kiện thực tế xã hội biến đổi nhanh chóng để trở thành “kim chỉ nam” cho hoạch định đường lối, tổ chức hoạt động thực tiễn, ngọn cờ tư tưởng tập hợp lực lượng, đoàn kết toàn Đảng, toàn dân để thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự bảo thủ, hay coi thường lý luận, chính là căn bệnh gây nên rối loạn trong thực tiễn, phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây ngay từ bên trong.

Thứ hai, sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu xuất phát từ việc xa rời các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho tổ chức đảng trở nên quan liêu, xa dân, mất niềm tin của nhân dân.

Thứ ba, từ sai lầm trong nhận thức lý luận về xây dựng nhà nước và quản lý xã hội dẫn đến sai lầm trong thiết kế mô hình, cơ chế vận hành của nhà nước xô viết. Đặc biệt, do sai lầm trong nhận thức về vai trò quan trọng của nhà nước và quản lý xã hội trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi đã thành công trong việc đạt được mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà mất cảnh giác, buông bỏ vũ khí bảo vệ, củng cố chế độ trong một thế giới đầy phức tạp với nhiều chế độ chính trị khác nhau.

Thứ tư, đó là bài học từ sai lầm trong nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Do nóng vội, bỏ qua sự tác động tất yếu của những quy luật phát triển kinh tế - xã hội dẫn đến sai lầm trong lãnh đạo, làm cho kinh tế phát triển chậm, năng suất thấp, tạo ra khủng hoảng xã hội.

Thứ năm, sai lầm trong nhận thức lý luận còn thể hiện ở phương pháp không đúng khi tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lê-nin; sự bảo thủ, hẹp hòi trong thái độ ứng xử với giá trị của văn minh nhân loại, nhất là những gì liên quan đến chủ nghĩa tư bản, đã tự thu hẹp khả năng phát triển của đất nước.

Thứ sáu, từ sai lầm về nhận thức lý luận, chủ nghĩa xã hội hiện thực, mô hình xô viết trượt dài trên sai lầm, yếu kém về thể chế chính trị, về phát triển kinh tế và quản lý xã hội dẫn đến bờ vực khủng hoảng. Mặt khác, thể chế chính trị sinh ra từ sai lầm về nhận thức lý luận trở thành vật cản đường, không cho phép tìm ra và tổ chức thực hiện giải pháp đủ sức để cứu vãn tình thế đó.

Yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Mục tiêu đặt ra cho chúng ta là đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Chúng ta thực hiện hai mục tiêu lớn này trong điều kiện thế giới đầy biến động phức tạp; tình hình trong nước còn có nhiều khó khăn, hạn chế cả về sức mạnh vật chất và nguồn lực con người. Vì thế, có thể nói hai mục tiêu 100 năm là phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, với nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân, với việc hiện thực hóa tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và bao lớp người ưu tú đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, thống nhất của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Song, đây cũng là một thách thức lớn đối với cả hệ thống chính trị, đối với toàn dân ta, trước hết và đầu tiên là đối với Đảng, người chèo lái con thuyền đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới.

Biến động nhanh chóng, phức tạp của tình hình khu vực và thế giới; yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng... đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên, mà còn là điều kiện sống còn để Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền, đáp ứng yêu cầu lịch sử, hiện thực hóa khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc trong kỷ nguyên mới.

Bộ máy chính quyền hai cấp vận hành thông suốt, tạo thuận lợi cho người dân tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Bắc Ninh, ngày 18-7-2025 _Ảnh: TTXVN

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong bối cảnh mới

Nói đến xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nói đến một tổng thể những nội dung, nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm mục đích làm cho Đảng vững mạnh, trong sạch, đủ năng lực, uy tín để lãnh đạo, cầm quyền, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng phát triển đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bao gồm nội dung về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, đảng viên, kiểm tra, kỷ luật, dân vận, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Với sự quan tâm đặc biệt đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm trong nhiều bài viết, bài phát biểu gần đây đã phân tích, đánh giá và chỉ ra vấn đề, nhiệm vụ rất cơ bản, quan trọng và toàn diện của công tác quan trọng này hiện nay và trong thời gian sắp tới. Đặc biệt, trong bài viết Rạng rỡ Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 - 3-2-2025), trên cơ sở yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu “công tác xây dựng Đảng càng cần được quan tâm, đổi mới và thực hiện quyết liệt hơn nữa”(4), và chỉ ra 7 “nhóm vấn đề trọng tâm” bao gồm: 1- Tiếp tục kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; 2- Không ngừng hoàn thiện hệ thống lý luận của Đảng; 3- Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; 4- Quyết tâm củng cố tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, khắc phục tình trạng cồng kềnh, chồng chéo; 5- Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; 6- Tăng cường công tác ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số trong công tác xây dựng Đảng; 7- Nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong năm 2025 của các cấp ủy, từng chi bộ, mỗi đảng viên(5).

Từ cơ sở đã nêu trên, yêu cầu đặt ra là cần làm rõ thêm về nhận thức đối với nhiệm vụ của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc mà đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra; cụ thể là:

Thứ nhất, vấn đề nâng cao nhận thức về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Trước hết, cần nhận thức đầy đủ rằng, yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một nhiệm vụ thường xuyên, không ngừng nghỉ của Đảng, một vấn đề có ý nghĩa then chốt của then chốt, bảo đảm cho Đảng giữ vững, phát huy được vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Về nguyên tắc, công tác xây dựng Đảng không được xa rời mục tiêu phấn đấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng vô sản kiểu mới, song nội dung, phương pháp cụ thể trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng bao giờ cũng phải xuất phát từ thực tiễn, gắn bó chặt chẽ với điều kiện, hoàn cảnh, yêu cầu cụ thể của đất nước, bối cảnh cụ thể của thế giới và khu vực. Việc nâng cao nhận thức về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đó là một nhiệm vụ thường xuyên, không ngừng nghỉ, một vấn đề có tính quyết định đối với vai trò và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng xuất phát từ cơ sở khách quan. Đây là yêu cầu xuất phát từ tính chất lãnh đạo của Đảng là dựa vào niềm tin, uy tín của Đảng đối với xã hội, với nhân dân. Hiến pháp nước ta hiến định: Đảng “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. 

Nói đến lãnh đạo là nói đến ba nội dung quan trọng nhất: Đề ra đường lối, chủ trương, mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc; tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện mục tiêu, đường lối, chủ trương; kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực thi thành công nhiệm vụ chính trị được cụ thể hóa từ mục tiêu, đường lối, chủ trương của Đảng. Một mặt, chỉ khi Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, mới có đủ năng lực hoạch định đường lối, chủ trương đúng đắn, tổ chức công việc thực tiễn thành công, mang lại quyền và lợi ích chính đáng cho nhân dân, mới trở thành tấm gương thực tế, thu phục được lòng người, trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng, phát huy mọi nguồn lực xã hội để thực hiện thành công mục tiêu chính trị đặt ra; mặt khác, Đảng là một hệ thống, được tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Tổ chức bộ máy của Đảng có khoa học, chặt chẽ và hợp lý mới có thể triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ, mục tiêu, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Nhưng năng lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức của Đảng lại phụ thuộc vào công tác cán bộ. Nếu đội ngũ cán bộ không xứng tầm cả về đức và tài thì khung tổ chức bộ máy hợp lý đến đâu cũng không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Đến lượt mình, để có đội ngũ cán bộ tốt cần làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng,... Vì thế, nâng cao nhận thức về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải đặt trong yêu cầu toàn diện, đồng bộ trên tất cả mặt công tác của Đảng và liên quan tới Đảng.

Thứ hai, vấn đề đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.

Với bất cứ một đảng chính trị nào, công tác chính trị, tư tưởng cũng là một công tác căn bản, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác tư tưởng, lý luận càng có ý nghĩa cần thiết và quan trọng hơn; bởi vì, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội - mục tiêu phấn đấu của Đảng ta là một sự nghiệp khổng lồ, hết sức mới mẻ, chưa có tiền lệ và nhiều khó khăn, thử thách. Đặc biệt, toàn bộ nhiệm vụ to lớn đó lại được triển khai thực hiện trong bối cảnh thế giới biến đổi vô cùng nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Trong điều kiện ấy, phải chăng yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của Đảng được tập trung vào nội dung cụ thể sau:

Đối với công tác tư tưởng của Đảng, một mặt, cần tăng cường về nội dung, hình thức, phương pháp thông tin, giáo dục nhằm bảo đảm lập trường chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, kiên định và có ý thức thường xuyên trong bảo vệ chế độ, cảnh giác với âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; mặt khác, công tác tư tưởng phải chủ động, phản ứng nhanh chóng, kịp thời, chính xác với diễn biến tình hình trong nước, khu vực và thế giới. Muốn vậy, phải đổi mới cơ chế vận hành bộ máy công tác tư tưởng của Đảng, tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân cán bộ trực tiếp phụ trách từng công việc và phải phản ứng kịp thời với tình huống khẩn cấp, đột xuất.

Đối với công tác lý luận, việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, lý giải bản chất của những vấn đề mới nảy sinh; dự báo, đánh giá đúng đắn, kịp thời xu hướng vận động, tính chất, khả năng tác động của các tiến trình, mối quan hệ trên tất cả bình diện của đời sống thực tế trong nước và trên thế giới, là một yêu cầu kinh điển, cũng là một đòi hỏi sống còn của công tác xây dựng Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc. Không nắm chắc và giải quyết tốt vấn đề lý luận sẽ lúng túng, thậm chí thất bại trong hoạt động thực tiễn, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”(6). Đó là vấn đề có tính quy luật đã được khẳng định là đúng trong lịch sử và chắc chắn cũng đúng trong các thời kỳ tiếp theo. Muốn tăng cường công tác lý luận đáp ứng yêu cầu trong kỷ nguyên phát triển mới, trước hết phải củng cố các tổ chức nghiên cứu lý luận của Đảng, quan tâm chú ý phát triển, sử dụng và đãi ngộ đội ngũ cán bộ, chuyên gia một cách hợp lý, tiếp tục phát huy dân chủ trong nghiên cứu, tiếp nhận và sàng lọc kết quả nghiên cứu để phục vụ cho công tác lãnh đạo của Đảng và cấp ủy các cấp. Đặc biệt, cần có đầu tư, tổ chức nghiên cứu thành tựu khoa học xã hội, nhất là khoa học chính trị, kinh tế quốc tế, nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm, mô hình phát triển, kinh nghiệm giải quyết các vấn đề chính trị trên thế giới để tham khảo cho sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ ba, vấn đề xây dựng tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên mới, tăng cường lực lượng và đội ngũ của Đảng.

Xây dựng, kiện toàn bộ máy của Đảng gắn liền với hệ thống chính trị là một khâu công việc quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã tạo nên thay đổi lớn chưa từng có về mô hình tổng thể, cơ chế vận hành của bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm đạt đến mục đích là làm cho bộ máy tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, sau khi tổ chức lại bộ máy vẫn còn rất nhiều công việc cần giải quyết để đạt được hiệu quả như mong muốn. Vấn đề hiện nay và trước mắt là phải khẩn trương hoàn thiện tổ chức, quan hệ công tác nội bộ của từng cơ quan, đơn vị; xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng vị trí công tác, mối quan hệ qua lại giữa các đơn vị cùng cấp và khác cấp quản lý. Đó là điều kiện để bộ máy nhanh chóng ổn định, đi vào hoạt động nhịp nhàng, mang lại hiệu quả thực tế, góp phần ổn định xã hội, phục vụ tốt cho sự phát triển kinh tế- xã hội và đời sống của nhân dân.

Bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị chỉ hoạt động hiệu lực, hiệu quả khi có đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu vị trí công tác, có phẩm chất chính trị, đạo đức trong sáng, được nhân dân tin cậy. Đây chính là yêu cầu, điều kiện xuất phát từ luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(7). Trong kỷ nguyên phát triển mới, tính chất công việc, điều kiện, phương pháp làm việc, đều đã thay đổi, đòi hỏi đối với cán bộ yêu cầu cao hơn, phức tạp hơn và năng động hơn. Do đó, công tác cán bộ cũng cần có sự đổi mới toàn diện từ nhận thức, đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, đến khen thưởng, kỷ luật, tiền lương, phúc lợi xã hội, chế độ đãi ngộ,... Đây là một tổ hợp công việc liên quan đến con người, vô cùng phức tạp, tế nhị, nhưng có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, chế độ; vì vậy, cần có sự đầu tư, nghiên cứu thận trọng, tỉ mỉ, công phu, nhưng cũng không thể chậm so với yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Thứ tư, vấn đề đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, cùng với đó là đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là cặp đôi nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu của cấp ủy, tổ chức đảng, một loại công cụ, phương tiện để bảo đảm chất lượng đội ngũ đảng viên, nâng cao năng lực công tác của tổ chức đảng, nâng cao uy tín của Đảng với nhân dân. Kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng, cũng như đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, không chỉ nhằm vào các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, mà còn có ý nghĩa răn đe, cảnh báo, giáo dục và cùng với đó là bảo vệ cán bộ, đảng viên và cấp ủy, tổ chức đảng tránh sa vào sai lầm, khuyết điểm. Việc một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cả đồng chí giữ chức vụ quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước bị kỷ luật đảng, thậm chí còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự, phải chăng có một phần nguyên do và trách nhiệm của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, cũng như công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của Đảng còn có hạn chế, thiếu sót, chưa nghiêm khắc, chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.

Vậy cần đổi mới công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng như thế nào để đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới? Từ lý luận và thực tiễn công tác xây dựng Đảng, có thể phải cân nhắc một số nội dung chủ yếu sau: 1- Cần nhận thức rõ hơn, quy định chặt chẽ hơn về vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ của cả hai bên, kiểm tra và bị kiểm tra. Đối với tổ chức đảng, đảng viên, đó là trách nhiệm tự giác, tự giáo dục, rèn luyện, ý thức trong tu dưỡng đạo đức, tác phong. Nhưng đối với cơ quan kiểm tra, giám sát, kỷ luật và cơ quan có chức năng chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đó là trách nhiệm trong xây dựng quy trình, kế hoạch, đề ra giải pháp và tổ chức kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện kịp thời dấu hiệu vi phạm, cảnh báo kịp thời nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, bảo vệ cho sự trong sáng, vững mạnh của tổ chức đảng và đảng viên. 2- Cần rà soát, hoàn thiện quy định trong Điều lệ Đảng, quy định của pháp luật, bảo đảm khoa học, chặt chẽ, tăng cường trách nhiệm, tính minh bạch trong công vụ; nghiêm khắc đối với hành vi, công việc sai phạm, tiêu cực; ngăn chặn từ gốc hiện tượng “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”. 3- Đặc biệt, cần thực hiện nhất quán, đến nơi, đến chốn giải pháp kiểm tra, giám sát cán bộ, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, như kê khai tài sản; giải quyết khiếu nại, tố cáo; không dùng tiền mặt trong giao dịch,...

Trong điều kiện Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực càng có vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó không chỉ là công cụ bảo đảm sự trong sáng về mặt đạo đức, minh bạch về quyền lợi của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng, mà còn là một “nút khóa” quan trọng bảo đảm cho sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc trong thực thi quyền lực, giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Thứ năm, vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng.

Nhận định tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục không chỉ có ở Đại hội XIII của Đảng, mà đã xuất hiện từ nhiệm kỳ đại hội trước đó, với cách diễn đạt khác. Trong phát biểu tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV ngày 21-10-2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, trong ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn. Như vậy, nguyên nhân gốc rễ của tình trạng “yếu” trong tổ chức thực hiện là “thể chế”. Do đó, có thể nói giải quyết được điểm nghẽn thể chế là chìa khóa mở ra điều kiện, khả năng thực tế để nâng tầm hiệu quả khâu tổ chức thực hiện; bởi vì, nói cho cùng, thể chế quyết định và chi phối cả hạ tầng và nhân lực. Nói đến điểm nghẽn thể chế là nói đến thể chế của toàn bộ hệ thống chính trị, bao gồm cả 3 mặt của vấn đề là: hệ thống pháp luật, quy tắc, điều lệ, quy định; hệ thống tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; và cơ chế vận hành, quan hệ công tác của cả hệ thống tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó vai trò lãnh đạo của Đảng giữ vai trò chi phối quyết định. Hiện nay, Đảng ta đang quyết tâm thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Trong thời gian tới, yêu cầu cấp thiết là đổi mới hệ thống luật pháp, chế định hành lang pháp lý và cơ chế vận hành của hệ thống quyền lực. Đối với hai vấn đề này, cần đầu tư nhiều công sức, có cách làm thật khoa học mới giải quyết được, song cần xử lý nhanh, quyết liệt, đồng bộ với cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, mới mang lại hiệu quả thực tế.

Để khắc phục điểm nghẽn về thể chế trong thời gian tới, vai trò và trách nhiệm đều thuộc về Đảng với tư cách là lực lượng chính trị lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Phương châm chỉ đạo trong công tác tổ chức “Đảng làm trước, trên làm trước” cũng cần được quán triệt trong toàn bộ việc tổ chức thực hiện các công tác, nhiệm vụ, trong đó có việc giải quyết nhanh, đồng bộ vấn đề thể chế. Trong quy định của Đảng và pháp luật cần xác định rõ hơn, đầy đủ hơn quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, từng cán bộ, trao quyền và trách nhiệm cho người đứng đầu. Trong cơ chế vận hành của hệ thống quyền lực cần có sự phân công, phân cấp, trao quyền và trách nhiệm đầy đủ cho cấp thực thi. Một mặt, trong điều kiện sau khi tổ chức lại bộ máy hành chính, sẽ hình thành chính quyền 3 cấp, số lượng đơn vị hành chính cấp xã ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ khá lớn, có nơi lên đến vài trăm, rất cần nhanh chóng lựa chọn và xác định rõ cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và quan hệ giữa cấp tỉnh và cấp xã. Đây là điều kiện rất cần thiết bảo đảm cho sự vận hành thông suốt của hệ thống quyền lực và hạn chế xáo trộn trong cuộc sống của người dân; mặt khác, nên chăng cân nhắc việc bí thư đảng ủy xã trực tiếp làm chủ tịch ủy ban nhân dân xã, nhằm tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, khắc phục tình trạng chậm trễ trong triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị tại cơ sở.

Thứ sáu, vấn đề tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là mục tiêu và là động lực của công cuộc xây dựng đất nước. Đại hội XIII của Đảng khẳng định quan điểm: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(8). Đây cũng là nguyên tắc lãnh đạo, phương châm hành động nhất quán của toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, trong nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn. Việc quán triệt nghiêm túc và thực hiện đúng đắn nguyên tắc lãnh đạo ấy là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu, bảo đảm sự bền vững của Đảng qua nhiều sóng gió thử thách, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội, bảo đảm cho những thành công vĩ đại của Đảng trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước.

Trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, quan điểm “Nhân dân là gốc” vẫn là nguyên tắc chỉ đạo, phương châm hành động nhất quán, một nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Tuy nhiên, môi trường xã hội, lối sống của người dân, bối cảnh trong nước và quốc tế, điều kiện kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ đã có nhiều thay đổi. Vì vậy, cách tiếp cận, nội dung, phương pháp hành động cũng cần có đổi mới nhằm tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, giữa từng đảng viên, tổ chức đảng với tập thể cán bộ, người lao động cơ quan, đơn vị nơi họ công tác, tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư. Trước hết, bản thân tổ chức đảng, mỗi đảng viên phải ý thức đầy đủ trách nhiệm trước nhân dân, tự tu dưỡng, rèn luyện về năng lực công tác và đạo đức, tác phong, thực sự nêu gương tốt trước nhân dân. Một mặt, Đảng cần đổi mới cơ chế, giải pháp để tạo điều kiện cho người dân có thể tham gia nhiều nhất, trực tiếp nhất và thực chất nhất trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, như tham gia xây dựng và phản biện chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển của đơn vị, địa phương và quốc gia; thể hiện ý chí, nguyện vọng và sự tin cậy trong lựa chọn người lãnh đạo tổ chức đảng và hệ thống chính trị; mặt khác, đổi mới chế định, cơ chế để phát huy dân chủ ở cơ sở, quyền và năng lực tự quản của cộng đồng dân cư, bảo đảm người dân được tiếp cận đầy đủ thông tin, dịch vụ, phúc lợi xã hội. Và vấn đề quan trọng hàng đầu là cải thiện đời sống của nhân dân toàn diện, không ngừng, bảo đảm cho người dân được thụ hưởng đầy đủ những thành quả của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.

Sự thay đổi môi trường xã hội, điều kiện sống, cũng như bối cảnh ở trong nước và nước ngoài, đặc biệt là yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển trong kỷ nguyên mới của dân tộc đặt ra tất yếu đổi mới công tác xây dựng Đảng. Toàn bộ sự đổi mới công tác xây dựng Đảng, từ lý luận đến thực tiễn, không có mục đích gì khác ngoài mục đích giữ vững vai trò, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Chỉ một khi Đảng vững mạnh, trong sạch mới đủ sức lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước trong thời gian tới./.

------------

(1) GS, TS Tô Lâm: “Rạng rỡ Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 1.055 (tháng 2-2025), tr. 6
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 95
(3) Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy truyền thống vẻ vang, tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong, làm tròn vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong giai đoạn mới”, Tạp chí Cộng sản, số 935 (tháng 2-2020), tr. 9 – 10
(4), (5) GS, TS Tô Lâm: “Rạng rỡ Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 1.055 (tháng 2-2025), tr. 7, 7 - 10
(6), (7)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 273 - 274, 313
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 27 - 28