Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong Chiến lược cải cách tư pháp

PGS, TS. Nguyễn Hòa Bình
Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
09:53, ngày 13-12-2019

TCCS - Thực tiễn khẳng định, cải cách tư pháp là một chiến lược bền bỉ, liên tục, gắn liền với quá trình không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Việc hoạch định chính xác, cụ thể, chuyên nghiệp nội hàm phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với chiến lược này có ý nghĩa hết sức to lớn, bảo đảm cho cải cách tư pháp thành công, xây dựng nền tư pháp văn minh, tiến bộ, gắn với nhân dân, phục vụ nhân dân.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương dự triển khai công tác tòa án năm 2019_Ảnh: TTXVN

Xây dựng nền tư pháp văn minh, tiến bộ là nội dung quan trọng để không ngừng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nhiệm vụ chiến lược trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo. Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả, Chiến lược cải cách tư pháp đã được tiến hành đồng bộ với đổi mới lập pháp, kiện toàn bộ máy nhà nước pháp quyền và xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính, chuyên nghiệp và tận tụy. Đến nay, Chiến lược cải cách tư pháp đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng; giải quyết được nhiều vấn đề bức xúc trong hoạt động tư pháp; kế thừa các giá trị truyền thống pháp lý tích cực của Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc nhiều giá trị phổ biến của các nền tư pháp hiện đại; đặt nền tảng quan trọng và tạo đà cho sự phát triển của nền tư pháp nước nhà trong dài hạn, tiệm cận gần hơn với nền tư pháp tiên tiến trên thế giới.

Trong thành công to lớn nêu trên, sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp là yếu tố quyết định. Đây là điều kiện tiên quyết để nền tư pháp phát triển đúng hướng, bảo đảm sự ổn định chính trị, giữ vững bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ở đây, phương thức lãnh đạo của Đảng không ngừng được bổ sung, hoàn thiện và về cơ bản, được thực hiện trên ba cơ chế, cụ thể như sau:

Một là, Đảng hoạch định và lãnh đạo thực hiện chiến lược, đường lối cải cách tư pháp.

Đây là nội dung quan trọng nhất nằm trong cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ quá trình lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cải cách tư pháp ở nước ta. Đảng đề ra đường lối, chiến lược, các định hướng về chủ trương cải cách tư pháp; quy định những mục tiêu, phương hướng đổi mới về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp với tầm nhìn dài hạn cũng như trong từng giai đoạn cụ thể trước mắt; lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các chủ trương, đường lối đó thành các nội dung trong Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch và chế độ, chính sách cụ thể. Qua đó, chủ trương, đường lối của Đảng từ chỗ chỉ là những định hướng trở thành những giá trị phổ biến, bắt buộc, có tính pháp lý để các cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan tư pháp tổ chức triển khai thực hiện, bảo đảm cho các nghị quyết của Đảng đối với công tác tư pháp được thực hiện có hiệu quả và đi vào đời sống xã hội. Đây là kết quả của việc cụ thể hóa đường lối, nghị quyết của Đảng và có thể xem đó là công cụ gián tiếp để Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với công cuộc cải cách tư pháp.

Chủ trương của Đảng đối với công tác cải cách tư pháp được chỉ rõ trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư bắt đầu từ Đại hội VII của Đảng cho đến nay, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2-1-2002, của Bộ Chính trị, về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và được phát triển toàn diện hơn tại Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Chiến lược cải cách tư pháp đã xác định 8 nhiệm vụ: 1- Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp; 2- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp; 3- Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp; 4- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh; 5- Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp; 6- Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp; 7- Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp; 8- Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. Đồng thời, chiến lược này đề ra nhiều biện pháp cụ thể, yêu cầu Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ và ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp tổ chức chỉ đạo thực hiện. Cho đến nay, nhiều chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp đã được Hiến định và thể chế hóa thành những quy định của pháp luật.

Hai là, Đảng bố trí cán bộ của Đảng làm nòng cốt trong các cơ quan tư pháp và lãnh đạo việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.

Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài và bền vững. Chất lượng của nền tư pháp, xét cho cùng, là do cán bộ tư pháp quyết định. Mỗi sai sót trong thực thi công vụ của cán bộ tư pháp đều ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị và lợi ích của người dân. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp thanh liêm, chính trực, vững vàng về bản lĩnh chính trị, tinh thông pháp luật được xác định là trọng tâm ưu tiên của Đảng trong quá trình cải cách tư pháp, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài. Từ công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, sắp xếp, xây dựng nguồn quy hoạch và thử thách cán bộ thông qua luân chuyển, cử cán bộ tham gia công tác thực tiễn đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn để phân công nắm giữ các vị trí chủ chốt trong các cơ quan tư pháp, đều được Đảng tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Theo đó, Đảng chuẩn bị cán bộ, lựa chọn, giới thiệu đảng viên ưu tú, có đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh và uy tín để bổ nhiệm vào các vị trí chủ chốt trong các cơ quan tư pháp, như Bí thư Trung ương Đảng làm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Ủy viên Trung ương Đảng làm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phân công các đồng chí cấp ủy viên các cấp làm chánh án tòa án và viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp... Đảng chỉ đạo quá trình chọn lựa cán bộ thông qua việc đánh giá, nhận xét đối với đảng viên trước khi bổ nhiệm. Những cán bộ, đảng viên, nhất là các đảng viên được giao trọng trách trong các cơ quan tư pháp phải chịu trách nhiệm trước Đảng về việc thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng về hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp được triển khai có hiệu quả tại đơn vị mình phụ trách. Đảng không quyết định trực tiếp công việc cụ thể của các cơ quan tư pháp, nhưng lãnh đạo hoạt động tư pháp thông qua sự lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng đầu các cơ quan này, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân và người đứng đầu, định kỳ nghe ban cán sự đảng của các cơ quan tư pháp báo cáo tình hình, đưa ra những định hướng chỉ đạo.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ tư pháp còn thể hiện ở chủ trương kiện toàn hệ thống trường đào tạo các chức danh tư pháp theo tinh thần đổi mới. Đào tạo gắn với tiêu chuẩn từng chức danh và yêu cầu sử dụng cán bộ; căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu của nghề nghiệp; tránh chồng chéo, dư thừa nguồn đào tạo. Chủ trương của Đảng về việc thành lập Học viện Tòa án, Trường Đại học Kiểm sát có chức năng đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp của từng ngành; đào tạo đại học, sau đại học chuyên ngành... là bước đột phá quan trọng, mở ra một thời kỳ mới cho các cơ quan tư pháp trong công tác đào tạo; đã được Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao tích cực triển khai, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn trong việc chủ động tuyển chọn, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho các cơ quan tư pháp.

Ba là, Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh. Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”(1).

Kiểm tra, giám sát là cách thức để thực thi sự lãnh đạo của Đảng; bổ sung, kiểm định, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tăng cường giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đối với hoạt động tư pháp, Đảng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thông qua tổ chức đảng và cơ quan kiểm tra của Đảng; đồng thời, lãnh đạo các cơ quan dân cử, tổ chức xã hội và người dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp. Cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm tra, giám sát cũng được hình thành và đang dần hoàn thiện. Theo đó, Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp thường xuyên, đột xuất thực hiện chức năng giám sát chuyên đề. Định kỳ 6 tháng, 1 năm, thủ trưởng các cơ quan tư pháp báo cáo, giải trình, trả lời chất vấn trước Quốc hội, hội đồng nhân dân về hoạt động của cơ quan mình. Quốc hội, hội đồng nhân dân tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm, phê chuẩn đối với một số chức danh tư pháp trên cơ sở hiệu quả hoạt động tư pháp và phẩm chất cá nhân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan truyền thông dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động tư pháp.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng theo ba cơ chế chủ đạo nói trên, Chiến lược cải cách tư pháp trong gần 15 năm qua theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nổi bật là:

1- Đã cơ bản hình thành hạ tầng pháp lý tư pháp khá đầy đủ với gần 70 đạo luật về tổ chức các cơ quan tư pháp, hệ thống luật về nội dung tư pháp, hệ thống luật tố tụng tư pháp và hệ thống luật bổ trợ tư pháp. Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật tư pháp chứa đựng 3 dấu ấn đổi mới quan trọng: Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; hai là, công khai, minh bạch, tuân thủ pháp luật; ba là, tăng cường kiểm soát quyền lực tư pháp.

2- Cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp được đổi mới, hoàn thiện theo các nguyên tắc tổ chức của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Theo đó, tòa án được khẳng định là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp, tổ chức theo 4 cấp. Nhiều tòa chuyên trách được thành lập mới, đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với mô hình tổ chức của tòa án; tăng cường cho cơ quan điều tra viện kiểm sát chức năng điều tra, truy tố các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp. Tổ chức cơ quan điều tra được sắp xếp lại theo hướng thu gọn đầu mối (xóa bỏ cấp tổng cục, sáp nhập các cục); luật hóa các biện pháp điều tra đặc biệt. Hoạt động thi hành án hình sự, dân sự và hành chính được điều chỉnh bằng luật và thống nhất tổ chức theo ngành dọc.

3- Tổ chức và hoạt động của các thiết chế bổ trợ tư pháp ngày càng hoàn thiện, phát triển cả về số lượng và chất lượng, hướng tới bảo vệ công dân một cách chuyên nghiệp. Chủ trương xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp được triển khai mạnh mẽ, mang lại những lợi ích thiết thực cho người dân; đồng thời, hỗ trợ các cơ quan tư pháp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình một cách khách quan, chính xác.

4- Đội ngũ chức danh tư pháp đã có sự trưởng thành cả về số lượng, chất lượng. Đổi mới công tác cán bộ từ khâu tuyển dụng, bổ nhiệm và đánh giá năng lực cán bộ tư pháp: chuyển từ chế độ xét tuyển sang chế độ thi tuyển trong tuyển dụng và bổ nhiệm chức danh tư pháp; chuyển hệ thống ngạch các chức danh tư pháp từ cấp hành chính (cấp huyện, tỉnh, Trung ương) sang ngạch nghiệp vụ (sơ cấp, trung cấp, cao cấp và tối cao); chuẩn hóa tiêu chuẩn các chức danh tư pháp; kéo dài thời gian giữ chức vụ; ban hành “Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán”, “Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án” làm căn cứ để cơ quan có thẩm quyền đánh giá và xã hội giám sát đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên.

5- Cải thiện cơ sở vật chất và các điều kiện bảo đảm hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng từng bước hiện đại, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan này thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Tập trung đầu tư xây dựng trụ sở làm việc cho nhiều đơn vị, cơ quan tư pháp, cơ sở giam giữ, kho vật chứng; tăng cường trang thiết bị nghiệp vụ; ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực chuyên môn; đầu tư cho các cơ sở đào tạo luật và đào tạo chức danh tư pháp.

6- Hiệu quả giám sát của các cơ quan dân cử, các đoàn thể chính trị - xã hội đối với hoạt động tư pháp thực chất hơn và nâng cao dần hiệu quả. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân đối với người đứng đầu các cơ quan tư pháp thực chất và thẳng thắn, góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch của hoạt động tư pháp. Định kỳ tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Công an. Việc giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội; sự giám sát trực tiếp của người dân; việc tham gia phản biện xã hội của các cơ quan báo chí, truyền thông được tạo nhiều điều kiện thuận lợi (công khai quy trình, thủ tục tư pháp; công khai bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án; bố trí khu vực riêng cho báo chí tại các phiên tòa xét xử các vụ án lớn...), góp phần nâng cao hiểu biết và năng lực tiếp cận tư pháp của nhân dân.

7- Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động tư pháp. Tham gia nhiều định chế tư pháp quốc tế và khu vực, như In-tơ-pôn, Hiệp hội công tố viên quốc tế, Hội đồng Chánh án thế giới và khu vực... Ký kết nhiều hiệp định tư pháp đa phương, song phương và đẩy mạnh trao đổi kinh nghiệm, thông tin trong công tác xây dựng pháp luật, điều tra, truy tố và xét xử; đào tạo cán bộ; hỗ trợ nguồn lực. Uy tín và địa vị của các cơ quan tư pháp Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

8- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. Ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa cơ chế lãnh đạo của Đảng, trong đó tập trung hơn vào: hoạch định và lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, giải pháp cải cách tư pháp; lãnh đạo công tác quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng cán bộ trong các cơ quan tư pháp, đặc biệt là bố trí các đồng chí cấp ủy có đủ tiêu chuẩn chuyên môn, uy tín và bản lĩnh làm chánh án tòa án, viện trưởng viện kiểm sát; củng cố các cơ quan tham mưu của Đảng về công tác nội chính; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các vụ án trọng điểm, được xã hội quan tâm; tăng cường công tác giáo dục, quản lý, kiểm tra và xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm tư cách đảng viên.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác triển khai, tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị còn nhiều hạn chế, chưa theo đúng lộ trình đề ra, nhiều nhiệm vụ quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp chưa được thực hiện, như: 1- Thể chế được hoàn thiện một bước, nhưng nhiều quy định trong các đạo luật tư pháp còn vướng mắc, hạ tầng pháp lý vẫn còn bất cập, như khoảng cách của khung hình phạt tại Bộ luật Hình sự quá dài; tòa án nhận được quá nhiều đơn đề nghị giám đốc thẩm nên gần như giám đốc thẩm trở thành cấp xét xử thứ ba; chưa thiết lập cơ chế pháp lý để thúc đẩy giải quyết tranh chấp dân sự, hành chính bằng phương thức hòa giải, đối thoại; hạ tầng pháp lý cho giám định tư pháp còn nhiều bất cập...; 2- Tổ chức bộ máy của tòa án vẫn còn những điểm bất hợp lý, chưa phù hợp với thực tiễn công tác xét xử, như yêu cầu tổ chức của tòa án phải được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính...; 3- Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều bất cập nên năng lực của cán bộ tư pháp khi phải xét xử các vụ án, tranh chấp quốc tế chưa đáp ứng được yêu cầu; 4- Cơ sở vật chất của các cơ quan tư pháp tuy đã được quan tâm, nhưng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thực tiễn, vẫn còn nhiều tòa án cấp huyện phải thuê trụ sở làm việc; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, hoạt động của các cơ quan tư pháp còn thấp so với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước...

Chính vì những tồn tại, hạn chế đó nên nền tư pháp của chúng ta: 1- Còn thấp hơn so với mặt bằng chung của thế giới; 2- Chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu, chưa tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người dân khi tiếp cận cơ quan tư pháp; 3- Mức độ tín nhiệm của người dân vào nền tư pháp chưa được như mong muốn; 4- Xã hội hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp còn chậm, chưa có cơ chế hữu hiệu để nâng cao trình độ dân trí về pháp luật nên khả năng giám sát hoạt động tư pháp, khả năng đoán định tư pháp, khả năng quyết định tư pháp của người dân rất hạn chế; 5- Còn nhiều bất cập trong công tác thi hành án tử hình, trong giám định tư pháp; các thiết chế phòng, chống tham nhũng nói chung hiệu quả chưa cao; 6- Vẫn còn bất cập về chế độ, chính sách và điều kiện bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ tư pháp; mâu thuẫn giữa áp lực công việc ngày càng nặng nề và biên chế của các cơ quan tư pháp phải tinh giản.

Cải cách tư pháp sâu rộng, cơ bản và lâu dài là đòi hỏi tất yếu của thực tiễn nhiều biến động. Bởi vì: 1- Vi phạm và tội phạm gia tăng, với tính chất phức tạp hơn, nghiêm trọng và tinh vi hơn; 2- Khoa học - công nghệ phát triển đã làm biến đổi thế giới, kéo theo sự biến đổi của các tranh chấp, vi phạm và tội phạm; xuất hiện nhiều loại tranh chấp phi truyền thống, vi phạm phi truyền thống và tội phạm phi truyền thống; 3- Trình độ dân trí ngày càng tiến bộ nên đòi hỏi của nhân dân đối với nền tư pháp ngày càng cao; 4- Kinh tế ngày càng phát triển đã xuất hiện nhiều khiếu kiện chưa từng có trong tiền lệ..., đòi hỏi sự bắt nhịp kịp thời của tư pháp để giải quyết; 5- Khoa học pháp lý đã có những bước tiến dài, nên tư pháp không chỉ dừng lại ở những nguyên tắc pháp lý truyền thống, như xét xử độc lập, tranh tụng..., mà còn nhiều vấn đề khác cần được nghiên cứu, áp dụng; 6- Theo cam kết quốc tế, năm 2025 chúng ta phải hoàn tất xây dựng tòa án điện tử trong khuôn khổ của Cộng đồng Chánh án ASEAN. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, chúng ta mới có những bước đi đầu tiên, như công khai bản án; thí điểm tiếp nhận đơn khởi kiện và tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của tòa án bằng phương tiện điện tử; cấp sao trích lục bản án, quyết định của tòa án qua mạng... Vì vậy, yêu cầu phải đầu tư nhiều hơn về nguồn lực xây dựng tòa án điện tử và quyết liệt hơn trong thực hiện để tăng cường tính minh bạch và nâng cao năng lực của tòa án, nhằm phục vụ người dân một cách tốt nhất; 6- Thế giới phát triển đã tạo ra: Thế giới phẳng; tranh chấp, vi phạm, tội phạm xuyên biên giới; hôn nhân đa quốc tịch. Tất cả những vấn đề đó đều vượt khỏi khuôn khổ quốc gia. Vì vậy, chúng ta phải không ngừng đổi mới và hội nhập quốc tế.

*

*      *

Có thể nói, sự thay đổi sâu sắc của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa; những thách thức phải ứng phó trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế... luôn đặt ra những yêu cầu mới đối với nền tư pháp không chỉ ở Việt Nam. Công cuộc cải cách tư pháp luôn đòi hỏi phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Theo đó, phương thức lãnh đạo của Đảng cần tập trung vào những nội dung sau:

Thứ nhất, Đảng hoạch định và tổ chức thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo.

Đảng lãnh đạo sự nghiệp cải cách tư pháp bằng đường lối, chủ trương, có tính định hướng phát triển cho toàn xã hội. Đường lối, chủ trương đó phải xuất phát từ thực tiễn, giải quyết được các yêu cầu của thực tiễn đặt ra; phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và của thời đại; đáp ứng được nguyện vọng, lợi ích của nhân dân và có khả năng thực hiện được. Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn 2020 - 2035, tầm nhìn đến năm 2050 phải hướng tới mục tiêu sau: Xây dựng nền tư pháp dân chủ, nghiêm minh, công bằng, liêm chính; từng bước hiện đại, tiếp thu những nguyên tắc tiến bộ của tư pháp thế giới; phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hoạt động tư pháp phải hướng tới tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; đấu tranh có hiệu quả với mọi loại tội phạm và vi phạm.

Để đạt được những mục tiêu đó, đòi hỏi: 1- Tiếp tục thực hiện những nội dung trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị mà chúng ta chưa thực hiện được (giảm khoảng cách khung hình phạt; khắc phục cấp giám đốc thẩm thành cấp xét xử thứ ba; thúc đẩy hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự và khiếu kiện hành chính; bảo đảm cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp; thành lập tòa án sơ thẩm khu vực, tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính...); 2- Tập trung khắc phục những bất cập còn tồn tại trong nền tư pháp Việt Nam, như trong lĩnh vực giám định tư pháp, trong thủ tục hành chính tư pháp, trong thi hành án tử hình, thiết chế phòng, chống tham nhũng, chế độ, chính sách, biên chế của các cơ quan tư pháp...; 3- Khẩn trương nghiên cứu các vấn đề mới của khoa học pháp lý, lý luận về tư pháp liên quan đến tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp; nguyên tắc xét xử; tranh chấp, vi phạm và tội phạm mới... để hoàn thiện pháp luật tư pháp, đáp ứng yêu cầu giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn và những thách thức mới đặt ra trong điều kiện khoa học - công nghệ phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đã xuất hiện nhiều tội phạm, tranh chấp chưa từng có trong tiền lệ; 4- Thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên (các điều ước quốc tế về phòng, chống tội phạm, quyền con người); các hiệp định thương mại tự do; 5- Tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học pháp lý tiên tiến đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới (về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, các chính sách hình sự, cơ chế hoạt động tư pháp, các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp...); 6- Nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng (hoàn thiện thể chế; đổi mới cơ quan điều tra chống tham nhũng; tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng thiết lập quyền lực giám sát quyền lực công; ban hành và thực thi các quy định về quà biếu...); 7- Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia các bản án và mở nhiều tiện ích để nâng cao khả năng quyết định tư pháp và đoán định tư pháp cho người dân khi tham gia hoạt động tư pháp. Hoàn thiện nền tảng pháp lý và hạ tầng công nghệ thông tin để xây dựng tòa án điện tử (xây dựng nền hành chính tư pháp và quản lý tòa án không giấy tờ; chuyển giao, xuất trình, kiểm tra, lưu giữ chứng cứ, xét xử qua mạng; kết nối và phát huy tác dụng của chương trình quản lý công dân của quốc gia để quản lý đối tượng bị can, bị cáo...).

Thứ hai, đổi mới, tăng cường lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ các cơ quan tư pháp.

Chủ trương xuyên suốt của Đảng là xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ tư pháp toàn diện cả về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn; coi trọng cả “đức”“tài”, trong đó “đức” là gốc; chất lượng cán bộ phải trên cơ sở thống nhất tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực. Đề cao kỷ luật, kỷ cương, nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ tư pháp; bảo đảm sự vô tư, khách quan, công bằng và phòng ngừa mọi sự thao túng của các quan hệ kinh tế, tình cảm trong giải quyết công việc. Theo đó, Đảng tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ tư pháp; làm cho mỗi cán bộ phải thấy rõ hơn trách nhiệm chính trị của mình trước Đảng, trước nhân dân để phấn đấu, giữ gìn và rèn luyện phẩm chất đạo đức. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn; tăng cường công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện đội ngũ cán bộ tư pháp. Chú trọng kiện toàn đội ngũ lãnh đạo cơ quan tư pháp các cấp có đủ năng lực, phẩm chất, uy tín và kinh nghiệm quản lý. Làm tốt việc luân chuyển cán bộ, thử thách trong thực tế đối với những cán bộ thuộc diện quy hoạch chức vụ lãnh đạo. Tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện những yếu kém để khắc phục; kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống để xây dựng bộ máy tư pháp trong sạch, vững mạnh. Có chính sách đãi ngộ hợp lý để bảo đảm đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác.

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ các cơ quan tư pháp theo những nội dung sau:

Một là, đổi mới tổ chức các cơ quan tư pháp.

Bố trí tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp tinh gọn, khoa học, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường xã hội hóa một số hoạt động tư pháp, hình thành các tổ chức hoạt động tư pháp của người dân để phát huy năng lực, nguồn lực xã hội và mở rộng tiện tích cho người dân khi có việc liên quan đến hoạt động tư pháp.

Hai là, đổi mới trong lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp.

Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo từng giai đoạn; gắn kết công tác đào tạo, bồi dưỡng với các khâu trong công tác cán bộ, đặc biệt là quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, bảo đảm cho việc sử dụng lâu dài. Trong đó: 1- Bảo đảm cán bộ tư pháp được đào tạo toàn diện cả về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức bổ trợ khác, trong đó có trình độ ngoại ngữ, tin học; có khả năng ứng dụng; 2- Chuẩn hóa nội dung, chương trình đào tạo theo định hướng thống nhất về cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động tư pháp; 3- Tăng cường phát triển các kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức chuyên môn, kiến thức bổ trợ nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu, xu thế phát triển của hệ thống tư pháp trong điều kiện hội nhập quốc tế, khoa học phát triển...; 4- Kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo quốc tế, kết hợp đào tạo ở cơ sở đào tạo với tự đào tạo qua thực tiễn; 5- Xây dựng chương trình, phương pháp đào tạo phù hợp với mỗi chức danh tư pháp, giữa đào tạo cơ bản và đào tạo nghề, giữa đào tạo ban đầu và đào tạo lại; tăng cường tự đào tạo thông qua thực tiễn nghề nghiệp; 6- Đẩy mạnh đào tạo theo định kỳ và coi đây là điều kiện bắt buộc để bổ nhiệm, tái bổ nhiệm chức vụ, chức danh tư pháp; 7- Xây dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp.

Ba là, đổi mới trong nhận xét, đánh giá, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ tư pháp.

Đảng lãnh đạo xây dựng cơ chế đánh giá, tuyển chọn, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ tư pháp làm cơ sở để cán bộ, đảng viên và nhân dân giới thiệu, giám sát, kiểm tra hoạt động của cán bộ tư pháp; cấp ủy xem xét, giới thiệu với cơ quan nhà nước hoặc cho ý kiến để các cơ quan bầu, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển hoặc bãi miễn theo quy định của pháp luật. Theo đó, xây dựng các tiêu chí cụ thể của cán bộ chức danh tư pháp gắn với tiêu chí của đảng viên, vì chỉ có thể có được đội ngũ cán bộ tư pháp tốt, đáng tin cậy trên nền của đội ngũ đảng viên tiền phong, gương mẫu. Trên cơ sở đó, đánh giá cán bộ chức danh tư pháp bảo đảm các yêu cầu sau: 1- Tiêu chí đánh giá phải trên cơ sở năng lực; kết quả thực hiện nhiệm vụ; phẩm chất, đạo đức, lối sống và phải được lượng hóa cụ thể; 2- Tiêu chí đánh giá phải căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn chức danh. Ví dụ, đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, ngoài những tiêu chí nêu trên, họ còn phải là hạt nhân đoàn kết trong đơn vị; quy tụ, tập hợp được sức mạnh của tập thể...; 3- Đánh giá thực hiện nhiệm vụ phải trên cơ sở xác định cụ thể khối lượng, chất lượng, tiến độ công việc đã hoàn thành; những giải pháp sáng tạo trong giải quyết công việc; tác động của hiệu quả công việc đối với tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị; chức vụ càng cao thì quy mô của tác động này phải càng sâu rộng; 4- Việc đánh giá phải được thực hiện định kỳ, thường xuyên; được xem xét trong một quá trình; được thực hiện công khai, dân chủ và bảo đảm khách quan, toàn diện; 5- Kết hợp chặt chẽ giữa đánh giá hiệu quả công việc nơi công tác và kết quả thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; kết hợp với đánh giá của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, các tổ chức đoàn thể nhân dân, quần chúng nhân dân; 6- Có hình thức công khai kết quả công tác cũng như kết quả nhận xét, đánh giá đối với cán bộ tư pháp để người được đánh giá tiếp tục phấn đấu, rèn luyện; sửa sai nếu có sai lầm; để cán bộ, đảng viên, đơn vị tiếp tục giám sát và tham gia quá trình đánh giá tiếp theo.

Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới phương thức tuyển chọn công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý nhằm phát hiện, thu hút, trọng dụng những người có đức, có tài, phát huy được phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm để đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự phát triển bền vững của đất nước. Tiến hành tổng kết việc thí điểm thi tuyển vào các vị trí lãnh đạo cấp vụ, cấp sở, cấp phòng, tiến tới triển khai, áp dụng thống nhất thi tuyển trong các cơ quan tư pháp theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, dân chủ, công khai và khách quan để lựa chọn người có đủ đức và tài đảm đương các vị trí chủ chốt trong các cơ quan tư pháp.

Bốn là, đổi mới về tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp.

Thành lập Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao (gồm các tổ chức đảng của Tòa án nhân dân tối cao và các tòa án nhân dân cấp cao), Đảng bộ Viện kiểm sát nhân dân tối cao (gồm các tổ chức đảng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các viện kiểm sát nhân dân cấp cao) trực thuộc Ban Bí thư quản lý. Thành lập đảng bộ tòa án nhân dân cấp tỉnh (gồm tổ chức đảng của tòa án nhân dân tỉnh và tổ chức đảng của các tòa án nhân dân cấp huyện thuộc quyền quản lý), đảng bộ viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (gồm tổ chức đảng của viện kiểm sát nhân dân tỉnh và tổ chức đảng của các viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thuộc quyền quản lý); đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh.

Việc đổi mới tổ chức đảng của các cơ quan tư pháp như vậy bảo đảm sự lãnh đạo chuyên nghiệp của Đảng đối với hoạt động tư pháp, khắc phục được tình trạng chung chung, không rõ định hướng, nhưng vẫn tôn trọng nguyên tắc độc lập tư pháp.

Năm là, đổi mới về bố trí cán bộ tham gia cấp ủy.

Thực hiện các nhiệm vụ của Chiến lược cải cách tư pháp, thực tiễn những năm qua cho thấy, việc người đứng đầu các cơ quan tư pháp tham gia cấp ủy địa phương là điều kiện quan trọng để cấp ủy lãnh đạo tốt hoạt động tư pháp, đồng thời cũng là để các cơ quan tư pháp có điều kiện thuận lợi hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, tăng cường vai trò của tòa án với tư cách là một thiết chế cơ bản trong việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, cần phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn vai trò của tòa án trong hệ thống chính trị và trong đời sống xã hội, từ đó cơ cấu cứng chánh án tòa án nhân dân tham gia ban thường vụ cấp ủy tại địa phương.

Thứ ba, tăng cường lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp.

Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tư pháp để ngăn chặn sự lạm quyền trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp là để góp phần phòng, chống tham nhũng, thiết lập trật tự, kỷ cương, nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước.

Định hướng tăng cường lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp bao gồm:

Một là, lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát thông qua tổ chức đảng.    

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp gồm các nội dung sau: 1- Xây dựng quy chế, quy trình làm việc và mối quan hệ lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng và thủ trưởng đơn vị. Quy định cụ thể mối quan hệ giữa tổ chức đảng với chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong công tác kiểm tra, giám sát; tránh chồng chéo, gây phiền phức cho cá nhân, tổ chức được kiểm tra; 2- Đưa nội dung kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp đối với tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan tư pháp vào chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm của cấp ủy để hoạt động này được thực hiện định kỳ, thường xuyên, có hệ thống; 3- Kiểm tra toàn diện và kiểm tra chuyên đề đối với việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và từng mặt công tác; 4-  Kiểm tra trực tiếp, xem xét, đánh giá tại chỗ hoặc kiểm tra gián tiếp qua báo cáo, kiến nghị và phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng; 5- Kiểm tra, giám sát trách nhiệm người đứng đầu tổ chức đảng và lãnh đạo các cơ quan tư pháp trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; 6- Đánh giá phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng và ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ trên cơ sở việc khắc phục những hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra sau kiểm tra, giám sát. 

Thực hiện nghiêm túc Quy định số 179-QĐ/TW, ngày 25-2-2019, của Bộ Chính trị, về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; tăng cường cơ chế “tự kiểm soát” thông qua sinh hoạt đảng, như phê bình, tự phê bình, kỷ luật đảng; hoạt động kiểm tra, giám sát, chất vấn, giải trình của các tổ chức đảng. Tổ chức đảng có trách nhiệm đánh giá, kịp thời chấn chỉnh, loại bỏ những cán bộ không đủ phẩm chất, đạo đức, có nhiều dư luận về tiêu cực, tham nhũng; bảo đảm đội ngũ cán bộ tư pháp phải thực sự liêm chính, trong sạch.

Hai là, lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan tư pháp.

Hoạt động kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan tư pháp được thực hiện thông qua các thủ tục tố tụng, có mối quan hệ chế ước lẫn nhau theo nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan tư pháp và các giai đoạn tố tụng. Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp kiểm tra, giám sát lẫn nhau bằng việc đổi mới, hoàn thiện cơ cấu, tổ chức, hoạt động; bảo đảm cho các cơ quan này thực thi đúng, đầy đủ quyền năng pháp lý của mình nhằm xây dựng cơ chế khách quan để phòng ngừa lạm quyền, dẫn đến vi phạm Hiến pháp và pháp luật, xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân.

Để công tác kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan tư pháp có hiệu quả, Đảng cần tập trung lãnh đạo các nội dung sau: 1- Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng tư pháp tạo cơ sở pháp lý kiểm soát quyền lực trong nội bộ cũng như kiểm soát từ bên ngoài của từng hệ thống cơ quan tư pháp theo nguyên tắc: hoạt động tố tụng của giai đoạn trước là tiền đề cho hoạt động tố tụng của giai đoạn sau; hoạt động tố tụng của giai đoạn sau kiểm tra, đánh giá hoạt động tố tụng của giai đoạn trước; 2-  Xây dựng cơ chế kiểm soát hiệu quả đối với cán bộ, công chức khi thực thi nhiệm vụ, bảo đảm ngăn chặn tình trạng lợi dụng “kẽ hở” của pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, gây phiền hà, phục vụ động cơ cá nhân, vụ lợi trong thực thi công vụ; cơ quan cấp trên phải kiểm soát có hiệu quả việc thực hiện quyền lực của cơ quan cấp dưới; người đứng đầu các cơ quan tư pháp phải tăng cường thực hiện kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước của nhân viên, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm; 3- Bảo đảm đầy đủ các điều kiện để tòa án thực hiện quyền tư pháp; kiểm soát việc thực hiện quyền lực của các cơ quan tư pháp bằng cơ chế tranh tụng, xét xử nhiều cấp, công khai, minh bạch; 4- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để thực thi nhiệm vụ chuyên môn cũng chính là thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp.

Ba là, lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân.

Quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng giữ vị trí quan trọng trong cơ chế bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đảng lãnh đạo, nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động tư pháp theo thiết chế đại diện (thông qua cơ quan dân cử, các tổ chức đoàn thể nhân dân) và trực tiếp. Những nội dung Đảng cần quan tâm lãnh đạo là: 1- Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn đối với thủ trưởng các cơ quan tư pháp tại các kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp; 2- Tăng thêm số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân có trình độ, hiểu biết về tư pháp để bảo đảm chủ thể giám sát có khả năng chuyên môn sâu trong giám sát, kiểm tra hoạt động tư pháp; 3- Ban hành cơ chế đánh giá kết quả chất vấn, trách nhiệm của người được chất vấn làm căn cứ giám sát việc thực hiện lời hứa, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan tư pháp; 4- Tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các cơ quan có chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra để thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động tư pháp; 5- Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của các tổ chức nghề nghiệp (như Hội Luật gia Việt Nam, các đoàn luật sư...) trong lĩnh vực tư pháp; 6- Xây dựng môi trường truyền thông lành mạnh, trung thực để thực hiện có hiệu quả việc giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động tư pháp; 7- Hoàn thiện cơ chế pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân giám sát các hoạt động tư pháp thông qua việc bảo đảm 8 quyền tư pháp cơ bản: quyền được biết, quyền được trình bày, quyền được bào chữa và tự bào chữa, quyền được tranh tụng, quyền được đưa ra chứng cứ tài liệu, quyền được đề nghị, quyền được kháng cáo và quyền được khiếu nại, tố cáo của người dân khi tiếp cận cơ quan tư pháp; 8- Tăng cường phòng, chống tham nhũng; nghiên cứu xây dựng Luật Giám sát và phản biện xã hội nhằm tạo cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó có hoạt động của các cơ quan tư pháp, từ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức đoàn thể nhân dân, các cơ quan báo chí, truyền thông và cá nhân công dân. /.

--------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5,  tr. 520